Phân Tích Khổ 1 Đoàn Thuyền Đánh Cá [36+ Bài Văn Hay]
Phân Tích Khổ 1 Đoàn Thuyền Đánh Cá ❤️️ 36+ Bài Văn Hay ✅ Tham Khảo Tuyển Tập Văn Mẫu Đặc Sắc Nhất Tại SCR.VN Với Những Phân Tích Chuyên Sâu.
Dàn Ý Phân Tích Khổ 1 Đoàn Thuyền Đánh Cá
Tham khảo dàn ý phân tích khổ 1 Đoàn thuyền đánh cá dưới đây để nắm được bố cục và những luận điểm chính để triển khai bài viết.
I. Mở bài phân tích khổ 1 Đoàn thuyền đánh cá:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm
- Giới thiệu về nội dung cần phân tích – khổ 1 Đoàn thuyền đánh cá.
II. Thân bài phân tích khổ 1 Đoàn thuyền đánh cá:
a. Khái quát hoàn cảnh ra đời và nội dung của tác phẩm:
- Sáng tác năm 1958, trong một chuyến đi thực tế của nhà thơ tại Hồng Gia, Cẩm Phả, Quảng Ninh.
- Là khúc tráng ca ca ngợi cuộc sống lao động làm chủ biển khơi làm chủ cuộc đời.
b. Phân tích đoạn thơ:
-2 câu thơ đầu: Thời gian ra khơi của đoàn thuyền
- Mặt trời so sánh với “hòn lửa”, khung cảnh lung linh rực rỡ sắc màu, dù là thời khắc của ngày tàn những hình ảnh đoàn thuyền ra khơi vẫn hiện lên thật đẹp, thật tráng lệ và căng tràn sức sống.
- Ẩn dụ “sóng – cài then”, “đêm – sập cửa”, màn đêm đang dần buông xuống
- Khi vạn vật đã đi vào trạng thái nghỉ ngơi, chỉ có đoàn thuyền là căng tràn sức sống, hăng hái lên đường
-2 câu thơ sau: không khí ra khơi vui tươi, sôi nổi đầy hứng khởi
- Từ “lại” nhấn mạnh đến nhịp công việc quen thuộc, lặp lại hàng ngày của người dân làng chài.
- “Câu hát” cùng “gió khơi” và con người với thiên nhiên như đang hòa làm một.
- Khổ thơ thứ nhất với sự vui tươi cùng hình ảnh thiên nhiên tráng lệ đã thật sự mở ra một bức tranh, một hành trình ra khơi mới
III. Kết bài phân tích khổ 1 Đoàn thuyền đánh cá:
- Khẳng định lại giá trị của đoạn thơ.
- Nêu cảm nhận của bản thân.
Tham khảo trọn bộ ☀️ Sơ Đồ Tư Duy Đoàn Thuyền Đánh Cá ☀️ 11 Mẫu Vẽ Tóm Tắt
Đoạn Văn Phân Tích Khổ 1 Đoàn Thuyền Đánh Cá
Đoạn văn phân tích khổ 1 Đoàn thuyền đánh cá dưới đây sẽ mang đến cho các em học sinh những ý tưởng làm bài đặc sắc.
Sau năm 1945, văn học Việt Nam bước sang thời kì văn chương Cách mạng. mang đậm âm hưởng anh hùng ca bi tráng, oai hùng nhằm tiếp thêm động lực, sức mạnh chiến đấu và xây dựng đất nước. Thoát ra khỏi cái tôi u sầu của mình trong thời kì Thơ mới, Huy Cận thổi vào hồn văn của mình sự vui tươi, phấn chấn về thiên nhiên, con người hăng say lao động kiến thiết nước nhà.
Đoàn thuyền đánh cá là một trong số những tác phẩm “thay máu” của ông, lấy cảm hứng từ người dân miền biển và vẻ đẹp biển khơi phóng khoáng năng động. Trong bài thơ, khổ thơ đầu mở ra khung cảnh đoàn thuyền ra khơi đánh cá gây ấn tượng đặc sắc cho người đọc.
Ra đời sau chuyến đi thực tế dài ngày của tác giả tới vùng mỏ Quảng Ninh, bài thơ được ví như một bức tranh tả thực cảnh đoàn thuyền của những người dân chài lưới ra khơi đánh cá trên nền trời thăm thẳm. Hình ảnh tráng lệ, đẹp đẽ cùng con người lao động tươi vui thể hiện sự tin tưởng, hy vọng và tự hào của nhà thơ với công cuộc đổi mới đất nước. Khổ thơ đầu của bài thơ là cảnh đoàn thuyền ra khơi đánh cá, khổ thơ cuối lại là cảnh đoàn thuyền trở về với chuyến thu hoạch thắng lợi.
Những hình ảnh, cảnh tượng lặp lại trong hai khổ thơ mang đến suy nghĩ và liên tưởng về sự lặp vòng, vần xoay của vũ trụ cũng như hoạt động của con người. Thời gian tuần hoàn, từ hoàng hôn tới bình minh cũng giống như con người luôn luôn cố gắng phát triển sự nghiệp, cải tạo nước nhà.
Mở đầu bài thơ bằng cảnh hoàng hôn, khi đoàn thuyền đánh cá chuẩn bị nhổ neo căng buồm ra khơi:
“Mặt trời xuống biển như hòn lửaSóng đã cài then, đêm sập cửaĐoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,Câu hát căng buồm cùng gió khơi”.
Đứng trên bờ để quan sát cảnh tượng hoàng hôn kỳ vĩ, phóng tầm mắt ra xa, thu vào trong ống kính của nhà thơ là hình ảnh mặt trời đỏ ối “như hòn lửa”. Mặt trời, biểu tượng của sự sống luôn rực rỡ và tráng lệ, nhất là khi được quan sát giữa không gian rộng lớn. “Mặt trời xuống biển”, người đọc có thể hình dung ra đường chân trời, nơi giao thoa giữa ánh sáng chói chang và mặt nước in hằn sắc đỏ cam kỳ vĩ.
“Sóng đã cài then, đêm sập cửa”, với người dân chài quanh năm bám biển, biển chính là nhà, là nơi để về, là nơi cho họ thức ăn, nguồn sống. Sóng “cài then”, con sóng trở nên hiền hòa và êm dịu dưới màn đêm yên tĩnh, “đêm sập cửa”, cả bầu trời tối đen sau khi mặt trời tắt nắng. Ở đây, tác giả dùng từ “cài then”, “sập cửa”, cũng giống như một ngôi nhà khi màn đêm buông xuống đều cửa đóng then cài, chuẩn bị cho một giấc ngủ sâu sau ngày dài làm việc vất vả.
Thiên nhiên đối với người dân lao động thật gần gũi, giống như mái ấm chở che, nuôi dưỡng họ trưởng thành. Trong thời khắc vạn vật chìm vào giấc mộng như thế, những người dân vạn chài lại bắt đầu công việc thường nhật của mình:
“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơiCâu hát căng buồm cùng gió khơi”
Phép tu từ ẩn dụ “đoàn thuyền đánh cá” chính là những người dân chài khỏe mạnh, giàu sức sống. Cùng với con thuyền – kế sinh nhai, người dân biển đi theo đoàn ra khơi đánh bắt cá. Tuy làm việc vào ban đêm, nhưng dường như, ta vẫn cảm nhận được rõ ràng cái khí thế hừng hực như đoàn quân ra trận. “Câu hát căng buồm cùng gió khơi’, ẩn dụ khí phách của người lao động với câu hát mạnh mẽ, mang tầm vóc vũ trụ “cùng gió khơi”.
Câu hát hay là sức mạnh của người lao động giúp con thuyền căng mới buồm, xứng đáng đứng cạnh thiên nhiên mênh mông vĩ đại. Tác giả khéo léo lồng ghép sự tự hào, tự tin đặt ngang con người sánh vai với vũ trụ, “cùng gió khơi” đưa thuyền ra xa, tìm về vùng đất nơi có nhiều hải sản quý giá. Con người làm chủ thiên nhiên, khai thác thiên nhiên để phục vụ cho đời sống kinh tế, hình ảnh con người chế ngự thiên nhiên vẫn luôn là khao khát và mục tiêu, nhất là trong thời kỳ đổi mới, xây dựng đất nước đương thời
Đặc sắc nghệ thuật của khổ thơ này là ở những hình ảnh không gian, con người hòa quyện làm một. Gói gọn trong một vài câu từ, khoảng thời gian từ lúc mặt trời lặn cho đến khi màn đêm bao phủ đều được miêu tả bao quát. Trên cái nền hùng vĩ ấy của thiên nhiên điểm xuyết hình ảnh con người, nhưng con người không hề bé nhỏ, lạc lõng mà là đoàn người ra khơi, vẻ oai hùng ngang hàng với năm châu bốn bể. Cảnh ra khơi huy hoàng, con người chinh phục thiên nhiên gây ấn tượng mạnh cho người đọc ngay từ đầu tác phẩm.
Với lời thơ dứt khoát, mạnh mẽ cùng âm hưởng bản anh hùng ca, ở khổ thơ mở đầu, tác giả đã mang đến một nức họa với những khối màu vừa hài hòa, giao thoa vừa đối lập, tương phản. Đặc sắc nghệ thuật của hai khổ thơ chính là ở chỗ, dùng những hình ảnh cũ nhưng nội dung lại nói về cái mới, tạo nên sự hô ứng giữa không gian và thời gian. Không gian tuần hoàn, thời gian ngày đêm lặp vòng cũng giống như những người lao động luôn làm việc hăng say, hết mình cho sự nghiệp lớn lao của dân tộc.
Chia sẻ thêm cùng bạn 🍀 Thuyết Minh Về Bài Thơ Đoàn Thuyền Đánh Cá 🍀 15 Bài Hay
Phân Tích Khổ 1 Đoàn Thuyền Đánh Cá Hay Nhất – Mẫu 1
Tham khảo văn mẫu phân tích khổ 1 Đoàn thuyền đánh cá hay nhất được chọn lọc và chia sẻ dưới đây dành cho các em học sinh.
Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” đã khắc họa nhiều hình ảnh đẹp tráng lệ thể hiện sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động, bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước đất nước và cuộc sống. Khổ thơ đầu của bài thơ có nhiều sáng tạo trong việc xây dựng hình ảnh bằng liên tưởng, tưởng tượng phong phú, độc đáo; có âm hưởng khỏe khoắn, hào hùng,lạc quan.
Bài thơ có hai nguồn cảm hứng lớn, song hành, hài hòa và trộn lẫn vào nhau. Đó là cảm hứng về thiên nhiên vũ trụ và cảm hứng về con người lao động trong cuộc sống mới. Thông qua việc miêu tả cảnh lao động đánh cá của người ngư dân vùng biển Hạ Long, bài thơ ngợi ca vẻ đẹp thiên nhiên, đất nước, sự giàu có của biển khơi; ngợi ca khí thế lao động hăng say, yêu đời của người lao động mới đã được giải phóng, đang làm chủ bản thân, làm chủ cuộc đời và đất nước.
Trước hết cảnh hoàng hôn trên biển và cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi được diễn tả rất sinh động ở 2 khổ thơ đầu. Cảnh hoàng hôn trên biển được miêu tả bằng một hình tượng độc đáo.
“Mặt trời xuống biển như hòn lửaSóng đã cài then, đêm sập cửa”.
Với sự liên tưởng độc đáo và so sánh thú vị, Huy Cận đã miêu tả rất thực sự chuyển đổi thời khắc giữa ngày và đêm khiến cảnh biển vào đêm thật kỳ vĩ, tráng lệ như thần thoại. Mặt trời xuống biển nhưng dường như không tàn lụi, không tắt. Nó như hòn lửa, một quả cầu lửa đỏ rực, khổng lồ chìm vào đáy nước đại dương. Biển cả bao la như nồng ấm hẳn lên. Phép tu từ so sánh: mặt trời được ví với hòn lửa đem đến cho bức bức tranh hoàng hôn một vẻ đẹp rực rỡ, tráng lệ, và ấm áp chứ không hiu hắt, ảm đạm như trong thơ cổ.
Phép nhân hóa, ẩn dụ “Sóng đã cài then đêm sập cửa” giúp người đọc cảm nhận thiên nhiên, vũ trụ,biển cả như đi vào trạng thái tĩnh lặng, nghỉ ngơi, thư giãn. Vũ trụ giờ đây như một ngôi nhà khổng lồ. Những lượn sóng dài như chiếc then cài, còn màn đêm đang buông xuống là cánh cửa. Hình ảnh thơ cho thấy thiên nhiên vũ trụ bao la mà gần gũi với con người – biển cả hay đó cũng chính là ngôi nhà thân thuộc của mỗi ngư dân. Có thể nói, hai câu thơ thể hiện tình yêu thiên nhiên và lòng yêu mến cuộc đời của nhà thơ Huy Cận.
Vũ trụ như một ngôi nhà lớn với màn đêm buông xuống là tấm cửa khổng lồ với những lượn sóng hiền hoà gối đầu nhau chạy ngang trên biển như những chiếc then cài cửa. Phác hoạ được một bức tranh phong cảnh kỳ diệu như thế hẳn nhà thơ phải có cặp mắt thần và trái tim nhạy cảm.
Khi thiên nhiên bước vào trạng thái nghỉ ngơi thì con người bắt đầu làm việc:
“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơiCâu hát căng buồm cùng gió khơi”.
Hình ảnh, nhạc điệu trong câu thơ diễn tả khí thế khỏe khoắn, phấn chấn của những người lao động: khẩn trương làm việc bất kể ngày đêm. Màn đêm mở ra đã khép lại không gian của một ngày. Giữa lúc vũ trụ, đất trời như chuyển sang trạng thái nghỉ ngơi thì ngược lại, con người bắt đầu hoạt động. Sự đối lập này làm nổi bật tư thế lao động của con người trước biển cả.
Nhịp thơ nhanh mạnh như một quyết định dứt khoát. Đoàn ngư dân đã xuống đáy thuyền ra khơi và cất cao tiếng hát khởi hành. Từ “lại” vừa biểu thị sự lặp lại tuần tự, thường nhật, mỗi ngày của công việc lao động, trở thành một nếp sống quen thuộc của những người ngư dân vùng biển vừa biểu thị ý so sánh ngược chiều với câu trên: đất trời vào đêm nghỉ ngơi mà con người bắt đầu lao động, một công việc lao động không ít vất vả.
“Câu hát căng buồm cùng gió khơi” là hình ảnh ẩn dụ mang tính chất khoa trương. Tiếng hát khỏe khoắn tiếp sức cho gió làm căng cánh buồm. Tiếng hát ấy, làm nổi bật khí thế hồ hởi của những người lao động lạc quan yêu nghề, yêu biển và say mê công việc chinh phục biển khơi làm giàu cho Tổ quốc. Tiếng hát ấy còn thể hiện niềm mong ước của người đánh cá: mong ước một chuyến ra khơi đánh bắt được thật nhiều hải sản, nhiều cá tôm giữa sự giàu đẹp của biển khơi:
Khổ thơ đầu bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” có kết cấu gọn gàng, cân đối như một bài tứ tuyệt: hai câu đầu tả cảnh, hai câu sau nói về con người. Cảnh và người tưởng như đối lập song lại hòa hợp, cảnh làm nền để cho hình ảnh con người nổi bật lên như tâm điểm của một bức tranh – bức tranh lao động khỏe khoắn, vui tươi tràn ngập âm thanh và rực rỡ sắc màu.
Gợi ý cho bạn 🌳 Cảm Nhận Bài Thơ Đoàn Thuyền Đánh Cá 🌳 15 Bài Hay Nhất
Phân Tích Khổ 1 Đoàn Thuyền Đánh Cá Ngắn Gọn – Mẫu 2
Bài văn phân tích khổ 1 Đoàn thuyền đánh cá ngắn gọn dưới đây sẽ giúp các em học sinh tham khảo những ý văn súc tích và cô đọng nội dung.
Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” là bài thơ được Huy Cận sáng tác vào năm 1958, nhân một chuyến đi thực tế ở vùng mỏ Hồng Gia – Cẩm Phả – Quảng Ninh. Bài thơ đã dùng được một không khí khẩn trương, hăng say của những người lao động đánh cá trong một đêm trên biển, với tư thế làm chủ thiên nhiên, biển cả. Bốn câu thơ đầu diễn tả cảnh ra khơi của “Đoàn thuyền đánh cá”, mở đầu cho một đêm đánh cá trên biển.
Hai câu thơ đầu diễn tả thời điểm ra khơi của “Đoàn thuyền đánh cá”. Thời gian ở đây là lúc ngày tàn, được miêu tả bằng những chi tiết, hình ảnh cụ thể, giàu giá trị gợi cảm:
”Mặt trời xuống biển như hòn lửaSóng đã cài then đêm sập cửa”.
Ở câu thơ này, tác giả đã sử dụng biện pháp so sánh. Màu đỏ của “mặt trời” được so sánh với “hòn lửa”. Viết về cảnh biển đêm,ngày tàn, nhưng cảnh vẫn không hoang vắng nhờ hình ảnh rực sáng này. Trong cảm quan của Huy Cận, vũ trụ là một ngôi nhà khổng lồ. Khi ngày đã tàn, “Mặt trời xuống biển”, màn đêm buông xuống “Đêm sập cửa” thì sóng biển như “then cài” đóng lại cánh cửa khổng lồ ấy.
Những hình ảnh ẩn dụ này chứng tỏ nhà thơ có trí tưởng tượng phong phú. Đối với thiên nhiên thì một ngày đã khép lại, nhưng với đoàn thuyền đánh cá thì đây lại là thời điểm bắt đầu cho công việc đánh cá trên biển trong đêm.
“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơiCâu hát căng buồm cùng gió khơi”.
Từ “lại” nói lên rằng hằng ngày vào cái thời điểm ấy, khi trời yên biển lặng, đoàn thuyền ra khơi đã thành một cảnh quen thuộc. Hình ảnh thơ “Câu hát căng buồm cùng gió khơi” là một hình ảnh được xây dựng nhờ một trí tưởng tượng phong phú. Huy Cận đã miêu tả, đã cụ thể hoá tiếng hát của những người lao động. Những người lao động đánh cá ra khơi cùng với tiếng hát khỏe khoắn đến mức tạo nên một sức mạnh (cùng với gió khơi) làm căng những cánh buồm. Họ ra khơi với một niềm phấn khởi, niềm tin vào thành quả lao động.
Bốn câu thơ mở đầu miêu tả cảnh ra khơi của “Đoàn thuyền đánh cá”, với thể thơ tự do, giọng thơ bay bổng trí tưởng tượng phong phú. Tác giả đã sử dụng thành công các biện pháp tu từ so sánh, ẩn dụ, nhân hóa liệt kê và liên tưởng tưởng tượng. Điều này đã đem đến thành công cho tác phẩm, bài thơ trở thành khúc tráng ca của người lao động vì sự giàu đẹp của quê hương, đất nước.
Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất
Phân Tích Khổ Đầu Đoàn Thuyền Đánh Cá Ngắn Nhất – Mẫu 3
Tham khảo bài phân tích khổ đầu Đoàn thuyền đánh cá ngắn nhất dưới đây để dễ dàng ôn tập và chuẩn bị cho bài kiểm tra viết.
Huy Cận là nhà thơ nổi tiếng trong phong trào thơ mới với những vần thơ sầu vũ trụ, nhưng sau cách mạng Huy Cận ấm áp hơi thở cuộc sống. Trong đó, bài thơ Đoàn Thuyền Đánh Cá là bài thơ mang âm điệu ngọt ngào niềm vui và sự say mê của con người lao động. Và phải chăng đó cũng chính là niềm vui của tác giả. Có đọc bài thơ, ta mới cảm nhận sâu sắc điều đó và hẳn rằng hình ảnh mặt trời sẽ chạm khắc trong tâm hồn ta.
“Mặt trời xuống biển như hòn lửaSóng đã cài then, đêm sập cửa.Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,Câu hát căng buồm cùng gió khơi”
Khổ thơ đầu của bài thơ đã gây ấn tượng cho người đọc bởi chất thơ chất lãng mạn theo nhịp điệu tiếng sóng vỗ. Chao ôi, hãy lắng tai nghe âm hưởng của bài ca lao động khỏe khoắn vang lên từ xa. Trông kìa, mặt trời đang xuống biển, cảnh hoàng hôn hiện lên thật đẹp. Với biện pháp so sánh ” mặt trời” được ví như “hòn lửa” cùng biện pháp nhân hóa đặc sắc ” Sóng đã cài then, đêm sập cửa.” miêu tả cảnh về đêm thật kỳ vĩ tráng lệ, mặt trời đang lặn dần vào lòng đại dương mênh mông buông xuống.
Không xe lạnh mà ngược lại ta còn thấy ấm áp biết nhường nào. Phải chăng bầu trời và mặt biển bao la là ngôi nhà vũ trụ trong khoảnh khắc phủ bóng tối mịt mùng. Dường như lúc đất trời đang đi vào trạng thái nghỉ ngơi cũng là lúc con người bắt đầu một ngày lao động mới, đó là ra khơi đánh cá.
Không phải từng chiếc thuyền lẻ tẻ đi biển mà cả đoàn thuyền một sức mạnh của cuộc đời đổi thay, chữ ” lại” trong ý thơ” lại ra khơi” vừa khẳng định nhịp điệu lao động của người dân chài đã đi vào ổn định, nề nếp, khúc hát lên đường vang động, gió biển thổi mạnh, cánh buồm cùng gió. Nghệ thuật liên tưởng kết hợp với hình ảnh ẩn dụ thể hiện một hiện thực đó là niềm vui là khí thế phơi phới mạnh mẽ lạc quan của dân chài trên biển.
Như vậy, chỉ với khổ thơ đầu đã tạo nên một âm hưởng bài thơ vô cùng đặc sắc. Tiếng hát say mê niềm vui như đang làm rung động sợi dây tình cảm của ta, và đây cũng chính là cái tài cái khéo của Huy Cận khi làm thơ.
Tiếp theo tham khảo 🌹 Mở Bài Đoàn Thuyền Đánh Cá 🌹 20 Đoạn Văn Mẫu Hay Nhất
Phân Tích Khổ 1 Đoàn Thuyền Đánh Cá Nâng Cao – Mẫu 4
Bài văn phân tích khổ 1 Đoàn thuyền đánh cá nâng cao dưới đây sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích dành cho các em học sinh.
Giáo sư Hà Minh Đức nhấn mạnh: Cù Huy Cận không chỉ là một nhà thơ mà còn là một nhà văn hóa, nhà hoạt động chính trị xã hội với những dấu ấn quan trọng”. Trên diễn đàn văn học Việt nam, Huy Cận cũng được mệnh danh là nhà thơ đa tài. Ông biết làm thơ từ năm 14 tuổi, 16 tuổi đã có thơ đăng trên báo và 20 tuổi đã xuất bản tập thơ đầu tay “Lửa thiêng”.
Điều quan trọng hơn cả, Huy Cận là người có tầm vóc với sức sáng tạo bền bỉ, cuộc đời ông từ khi là chàng thanh niên mới biết làm thơ cho tới khi rời cõi tạm, ông đều không ngừng sác tác thơ. Một trong những tác phẩm hay tiêu biểu phải kể đến bài thơ Đoàn Thuyền Đánh Cá. Khổ đầu bài thơ là bức tranh thiên nhiên về cảnh hoàng hôn thật huy hoàng tráng lệ và vẻ đẹp của con người lao động hăng say.
Mặt trời xuống biển như hòn lửa,Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Phân tích khổ thơ đầu bài đoàn thuyền đánh cá – Bức tranh thiên nhiên hiện ra thật huy hoàng tráng lệ. Đó là cảnh hoàng hôn buông xuống, ánh mặt trời không khác gì hòn lửa lớn và chìm dần xuống biển bao la. Có lẽ, lúc này Huy Cận đang đứng ở cửa biển và được chứng kiến cảnh tượng hùng vĩ tuyệt vời này. Trong thơ ca có rất nhiều bài thơ và những câu thơ về hình ảnh mặt trời lặn nhưng để có thể tạo nên hình ảnh huy hoàng như thế này có lẽ hiếm.
Chúng ta có thể bắt gặp một số hình ảnh về mặt trời lặn như:
Con tàu dần khuất hướng tâyMặt trời lẩn trốn vầng mây bập bềnhHoàng hôn ráng đỏ gợi tình.Cho ai vương vấn bóng hình người ta
Nếu những tác giả khác phải dùng nhiều ngôn từ, nhiều câu thơ mới gợi lên một buổi chiều hoàng hôn thì Huy Cận chỉ sử dụng một câu thơ với hình ảnh mặt trời rực rỡ như ngọn cầu lửa khổng lồ, sau đó chìm dần, chìm dần xuống biển khơi. Cách sử dụng từ rất sống động. Mặt trời được nhân hóa với hành động “xuống”, một sự sáng tạo tuyệt vời trong thơ ca.
Người ta thường dùng từ “lặn” cho mặt trời như “Mặt trời lặn vu vơ/ Buồn rất trong/ Lấm tấm mồ hôi gương mặt hoài niệm.” hoặc một số tác giả thường dùng ánh nắng để nói về hoàng hôn thay vì sử dụng hình ảnh mặt trời như “Lom khom nhặt nắng chiều tà/ Hoe vàng cành lá vượt qua cuối trời”
Cách sử dụng từ của Huy cận rất táo bạo và sống động, mới mẻ đầy tính sáng tạo rất đúng với tinh thần sáng tạo của thơ ca. Vì vậy không hề nói quá khi nói ông là nghệ sĩ sáng tạo cả đời từ lúc trưởng thành cho đến khi rời cõi tạm.
Hình ảnh mặt trời xuống núi và đỏ rực như quả cầu lửa chính là miêu tả hoàng hôn rực rỡ ở vùng biển khơi. Tác giả lại biến hóa sự dịch chuyển thời gian nhanh chóng đến đêm với câu thơ: “Sóng đã cài then, đêm sập cửa.” Đều là những hành động rất mạnh, dứt khoát.
Màn đêm dường như đã ập xuống và vũ trợ dường như trở thành một ngôi nhà lớn trong với sóng cài then và đêm thì sập cửa. Thiên nhiên bắt đầu nghỉ ngơi, dọn dẹp sau một ngày mệt mỏi. Những con sóng vẫy vùng dữ tợn ngoài khơi xa dường như cũng thả lỏng nhẹ nhàng hơn. Tất cả đang nghỉ ngơi sau một chu trình hoạt động.
Khi thiên nhiên nghỉ ngơi, con người lại mới bắt đầu làm việc:
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,Câu hát căng buồm cùng gió khơi
Từng đoàn thuyền đánh cá ra khơi mang đến sự hoạt động sôi nổi, mạnh mẽ. Tác giả sử dụng từ “lại” cho thấy đây là một công việc thường xuyên liên tục, diễn ra mỗi ngày và ngày nào cũng vậy. Nó chính là sự đối lập với vũ trụ. Khi vũ trụ chìm trong giấc ngủ là lúc đoàn thuyền sẽ căng buồm ra khơi, khẩn trương mau lẹ, tích cực.
Mặc dù đây là công việc ngày nào cũng như ngày nào nhưng họ luôn ra khơi trong một tâm thế vô cùng hăng say, hăm hở đầy sức sống, náo nhiệt và rộn ràng. Sang câu thơ “Câu hát căng buồm với gió khơi” ta có thể hình dung ra niềm vui lao động của con người. Họ chủ động trong công việc, họ yêu lao động và yêu nghề.
Đối với họ, khi màn đêm buông xuống việc ra khơi chính là niềm vui, một nét đẹp trong lao động. Con người hiện lên làm chủ thiên nhiên, làm chủ biển cả. Tiếng hát của họ đã át đi tiếng gió trời thổi phập phồng cánh buồm, đẩy con thuyền ra khơi xa hơn.
Phân tích khổ thơ đầu bài đoàn thuyền đánh cá – Hành trình ra khơi luôn đầy niềm vui và ngập tràn tiếng hát. Bức tranh thiên nhiên hiện lên thật sinh động với tiếng hát và hình ảnh người lao động hăng say, khẩn trương, vui vẻ.
Chỉ với 4 câu thơ nhưng Huy cận đã vẽ lên một bức tranh hoàng hôn rực rỡ và hình ảnh con người lao động say mê với công việc và làm chủ cuộc đời, làm chủ thiên nhiên. Ngôn ngữ thơ có âm điệu vui tươi, khỏe khoắn, bay bổng mang đến sức hấp dẫn cho bài thơ.
Chia sẻ 🌼 Kết Bài Đoàn Thuyền Đánh Cá 🌼 20 Đoạn Văn Mẫu Hay Nhất
Phân Tích Khổ Đầu Của Đoàn Thuyền Đánh Cá Học Sinh Giỏi – Mẫu 5
Tham khảo bài văn phân tích khổ đầu của Đoàn thuyền đánh cá học sinh giỏi để trau dồi những ý văn hay và đặc sắc.
Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca hiện đại Việt Nam. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” viết năm 1958, trong thời gian ông đi thực tế ở Hòn Gai – Quảng Ninh, được in trong tập “Trời mỗi ngày mỗi sáng”. Bài thơ ra đời trong thời điểm miền Bắc nước ta đang trong giai đoạn đầu dựng chủ nghĩa xã hội. Xuyên suốt toàn bài thơ là âm hưởng khỏe khoắn, hào hùng, lạc quan thể hiện rõ dấu ấn của sự chuyển mình trong cảm hứng nghệ thuật của nhà thơ Huy Cận.
Cũng vẫn là cảm hứng về thiên nhiên vũ trụ, nếu như trước cách mạng, thiên nhiên vũ trụ đi vào thơ ông thường gợi cảm giác về sự rợn ngợp trước cái mênh mông, vô cùng vô tận khiến con người trở nên nhỏ bé, cô độc thì ở bài này, thiên nhiên vũ trụ trở nên tươi sáng, khoáng đạt gần gũi với con người, mạnh mẽ và đầy tự tin trong tư thế của một vị chủ nhân của biển cả.
Ở khổ thơ đầu tiên, ta đã bắt gặp hình ảnh người dân chài cá ra khơi vào lúc hoàng hôn.
Mặt trời xuống biển như hòn lửaSóng đã cài then đêm sập cửa
Nhà văn Nguyễn Tuân Đã viết “Mặt trời đỏ như lòng trứng khổng lồ, đặt trên mâm lễ từ từ tiến vào” với “hòn lửa”. Khi hoàng hôn buông xuống, mặt trời như một quả cầu lửa khổng lồ đang từ từ lặn xuống biển xanh, cả không gian vũ trụ như nhuốm một màu đỏ rực rỡ và huy hoàng. Điều này khác hẳn với thời xưa cảnh hoàng hôn chiều tà thường gợi cảm giác ảm đạm hiu hắt và đây cũng là điều khác hẳn với thơ Huy Cận thời kì trước cách mạng tháng tám 1945.
Trước đó bao nhiêu sóng nước tràng giang là có bấy nhiêu nỗi buồn trong lòng thi nhân: “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp”. Độc đáo hơn, nhà thơ đã tả “mặt trời xuống biển” (trong khi biển nước ta là biển đông – một cách cảm nhận dường như thật mơ hồ nhưng có thể lý giải được bởi phải chăng Huy Cận đang mượn điểm nhìn của những người đi biển để chứng kiến cảnh mặt trời lặn “xuống biển”?
Khi ánh sáng của mặt trời dần lịm tắt, màn đêm từ từ buông xuống: “Sóng đã cài then đêm sập cửa”. Trong trí tưởng tượng bay bổng của Huy Cận, màn đêm như một cánh cửa khổng lồ mà sóng chính là cái then cài đóng lại cánh cửa khổng lồ ấy. Nghệ thuật nhân hóa đã đem lại cho người đọc cảm giác thiên nhiên vũ trụ trong màn đêm như một ngôi nhà lớn, gần gũi, thân thuộc với con người, nó không huyền bí, xa lạ với con người, đoàn thuyền đánh cá ra khơi mà như đang đi trong chính ngôi nhà thân thuộc của mình.
Như vậy, nhờ sự khéo léo tài tình biện pháp tu từ so sánh và nhân hóa trong hai câu thơ mở đầu, nhà thơ Huy Cận đã khắc họa được vẻ đẹp kì vĩ của thiên nhiên lúc hoàng hôn và mối quan hệ gắn bó giữa thiên nhiên vũ trụ với con người đang khao khát chinh phục làm chủ biển khơi.
Thiên nhiên vũ trụ bắt đầu đi vào trạng thái nghỉ ngơi thì con người bắt đầu công việc khơi đánh cá. Đó là sự tương phản giữa thiên nhiên và con người:
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơiCâu hát căng buồm cùng gió khơi
Chuyến ra khơi này là cả một đoàn thuyền với khí thế căng tràn, khí thế lao động tập thể, chứ không phải là chuyến ra khơi của những con thuyền lẻ tẻ ở ven bờ. Hơn hết, tuy công việc đánh cá ở ngoài khơi nặng nhọc và đầy bất trắc nhưng đoàn quân vẫn xông trận cất cao tiếng hát. Đây là một hình ảnh bay bổng thể hiện sự tưởng tượng liên tưởng độc đáo của tác giả. Bên cạnh đó, tiếng hát đã bộc lộ niềm lạc quan, phấn khởi, nhiệt tình của lao động của những con người làm chủ quê hương giàu đẹp.
Khổ thơ mở đầu có âm hưởng khỏe khoắn, hào hùng, sử dụng nhiều biện pháp tu từ đặc sắc. Bằng bút pháp lãng mạn và sức tưởng tượng phong phú, Huy Cận đã sáng tạo ra những hình ảnh đẹp bất ngờ, dào dạt chất thơ. “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận thực sự là một bức tranh lao động hoành tráng, tràn ngập ánh sáng, sắc màu và sức sống mãnh liệt. Bài thơ là khúc ca ca ngợi biển cả giàu đẹp và ca ngợi những người dân chài trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa do Đảng và Bác Hồ chỉ đường dẫn lối.
Đón đọc tuyển tập 🌹 Phân Tích Đoàn Thuyền Đánh Cá Huy Cận 🌹 19 Mẫu Hay Nhất
Phân Tích Khổ Thơ Đầu Bài Đoàn Thuyền Đánh Cá Chi Tiết – Mẫu 6
Bài văn phân tích khổ thơ đầu bài Đoàn thuyền đánh cá chi tiết dưới đây sẽ giúp các em học sinh nắm vững được giá trị nội dung bài nghệ thuật của đoạn thơ.
Huy Cận được biết đến là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới. Ông sáng tác cả trước và sau cách mạng. Người ta biết đến ông với rất nhiều tác phẩm nổi tiếng. Một trong số đó phải kể đến “Đoàn thuyền đánh cá” – bài thơ mang hơi thở của đất nước sau Cách mạng tháng Tám. Bài thơ được mở ra bằng hình ảnh lao động của những người dân chài lưới một cách rất thơ mộng, trữ tình:
“Mặt trời xuống biển như hòn lửaSóng đã cài then, đêm sập cửa.Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,Câu hát căng buồm cùng gió khơi”
Nếu trước Cách mạng tháng Tám hồn thơ của Huy Cận là một “mối sầu thiên cổ” thì đến giai đoạn sau Cách mạng thơ của ông đã chuyển mình sang âm hưởng vui tươi, lạc quan, tràn đầy tình yêu với thiên nhiên đất trời. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” được ra đời vào năm 1958 trong một chuyến đi thực tế của Huy Cận ở vùng mỏ Hồng Gia, Cẩm Phả, Quảng Ninh.
Cả bài thơ là không khí tươi vui, hăng say lao động của những người dân chài lưới với tư thế làm chủ thiên nhiên đất trời. Đoạn thơ trên chính là những nét vẽ đầu tiên, mở đầu cho cảnh ra khơi của đoàn thuyền.
Hai câu thơ đầu đã nói lên được thời gian ra khơi của đoàn thuyền – đó là thời khắc của ngày tàn. Ở câu thơ thứ nhất mặt trời đã được so sánh với “hòn lửa”gợi ra một khung cảnh lung linh rực rỡ sắc màu. Dù là thời khắc của ngày tàn nhưng hình ảnh ra khơi qua biện pháp so sánh này vẫn hiện lên thật đẹp, thật tráng lệ và căng tràn sức sống. Trước khi bị nhấn chìm vào dòng nước lạnh lẽo, mặt trời – mái nhà của vũ trụ ấy vẫn kịp tỏa ra những hơi ấm, xua đi cái lạnh lẽo của đêm tối.
Nhưng ngay sau đó thôi, biện pháp ẩn dụ đã kéo theo màn đêm đến, bao trùm khắp không gian: “Sóng đã cài then, đêm sập cửa”. Từng con sóng nhấp nhô xô vào bờ được Huy Cận ví như những chiếc then cài cửa, cẩn thận khóa lại màn đêm. Màn đêm như một tấm màn được thiên nhiên buông xuống. Tất cả đã đi vào trạng thái nghỉ ngơi, chỉ có đoàn thuyền là căng tràn sức sống, hăng hái lên đường.
Cái tươi vui, hứng khởi của đoạn thơ còn được thể hiện ở chỗ không phải một chiếc thuyền mà là một “đoàn thuyền” cùng nhau ra khơi. Từ “lại” ý nói lên rằng công việc này dường như đã trở thành một thói quen với những người dân nơi đây. Dù ra khơi vào lúc trời chiều nhưng tinh thần, và ý chí không vì thế mà giảm bớt: “Câu hát căng buồm cùng gió khơi”.
Con người lúc này đã hòa cùng với thiên nhiên, thiên nhiên cũng đang góp sức ủng hộ con người: “câu hát” cùng “gió khơi”. Chính những câu hát vui tươi, hóm hỉnh đó cùng với gió khơi là nguồn động lực đưa chiếc thuyền ra khơi, bắt đầu một hành trình mới, một hành trình đầy cam go và thử thách phía trước.
Bằng việc kết hợp khéo léo biện pháp tu từ so sánh với ẩn dụ cùng với những hình ảnh thơ đặc trưng của biển cả, của thiên nhiên đất trời, khổ thơ thứ nhất với sự vui tươi cùng hình ảnh thiên nhiên tráng lệ đã thật sự mở ra một bức tranh, một hành trình ra khơi mới. Niềm vui sự hăng hái khi bắt đầu lao động đã được đáp trả bằng một chuyến ra khơi bội thu được Huy Cận thể hiện ở những khổ thơ sau đó.
Có thể nói, dù chỉ là bốn câu thơ ngắn thôi nhưng cũng đủ để ta thấy sự thay đổi trong hồn thơ của Huy Cận. Cũng chính vui tươi mới mẻ này đã góp thêm sắc màu mới cho phong trào thơ mới – sắc màu của một Huy Cận với hồn thơ đầy lạc quan, yêu đời.
Mời bạn khám phá thêm 💕 Phân Tích 2 Khổ Đầu Bài Đoàn Thuyền Đánh Cá 💕 10 Mẫu Ngắn Gọn Và Chi Tiết
Phân Tích Khổ 1 Bài Đoàn Thuyền Đánh Cá Ngắn Hay – Mẫu 7
Đón đọc bài văn phân tích khổ 1 bài Đoàn thuyền đánh cá ngắn hay dưới đây sẽ mang đến cho các em học sinh những ý tưởng làm bài phong phú.
Hình ảnh người lao động mới là đề tài quen thuộc của nền văn học hiện đại. Ta đã từng thấy hình ảnh của một anh thanh niên làm công tác khí tượng kiên trì, lặng lẽ trên đỉnh Yên Sơn trong “Lặng lẽ Sapa” của Nguyễn Thành Long; hay một khát vọng cống hiến nhỏ bé trong “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải. Mỗi nhân vật tuy khác nhau về nghề nghiệp, hoàn cảnh, nhưng họ có chung với nhau tinh thần cống hiến lặng thầm cho Tổ quốc. Đó chính là vẻ đẹp giản dị nhưng rất cao quý của người lao động trong thời đại mới.
Đến với bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận, ta cùng thấy được bức chân dung phát hoạ những dân động miền biển với sự say mê, hứng khởi trong lao động. Đặc biệt là ở khổ thơ đầu, nhà thơ đã miêu tả khung cảnh thiên nhiên để dựng lên bức phông nền kỳ vỹ cho đoàn thuyền ra khơi mang một vẻ đẹp hùng tráng.
Trước hết, cảnh biển vào đêm được tác giả miêu tả rất đặc sắc:
Mặt trời xuống biển như hòn lửaSóng đã cài then, đêm sập cửa.
Mặt trời được ví như một hòn lửa khổng lồ đang từ từ lặn xuống mặt biển. Trong hình ảnh liên tưởng này, vũ trụ như một ngôi nhà lớn, với đêm buông xuống là tấm cửa khổng lồ và những lượn sóng là chiếc then cài vững chắc. Hình ảnh so sánh kết hợp nhân hóa, mang đậm chất lãng mạn vừa tạo nên vẻ đẹp huyền ảo cho bức tranh thiên nhiên vừa mở ra thời gian cho bức tranh lao động biển cả, đó chính là lúc màn đêm buông xuống – kết thúc một ngày.
Chính vào thời điểm thiên nhiên bắt đầu trạng thái nghỉ ngơi thì con người lại bắt đầu quá trình lao động của mình:
“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơiCâu hát căng buồm cùng gió khơi”
Đoàn thuyền chứ không phải chỉ con thuyền ra khơi đã tạo ra sự tấp nập trên biển, gây ấn tượng về một khối lao động đoàn kết vững chãi của con người. Chữ “lại” vừa khẳng định nhịp điệu lao động ổn định của người dân chài ngày qua ngày, vừa thể hiện sự đối lập giữa sự nghỉ ngơi của đất trời và sự lao động của con người. Tác giả đã tạo ra một hình ảnh khỏe, lạ mà vẫn đậm chất hiện thực. Người đánh cá căng buồm và cất câu hát lên, thế nhưng nhà thơ có cảm giác như chính câu hát đó đã làm căng cánh buồm.
Câu hát mang theo niềm vui, sự phấn chấn của người lao động trở thành sức mạnh cùng với gió biển làm căng cánh buồm để con thuyền lướt sóng ra khơi. Nghệ thuật ẩn dụ trong hình ảnh thơ lãng mạn này đã góp phần thể hiện một hiện thực. Đó là tâm trạng náo nức, niềm vui phơi phới, tinh thần lạc quan của người dân chài khi ra khơi. Họ ra khơi trong tâm trạng đầy hứng khởi…
Đoạn thơ mở đầu “Đoàn thuyền đánh cá” là bức tranh khung cảnh thiên nhiên tráng lệ, hình ảnh đoàn thuyền ra khơi với khí thế hào hứng say mê, tràn đầy sức sống, với tâm hồn lãng mạn của người làm chủ đất nước thật đáng trân trọng tự hào.
Gửi tặng bạn 💕 Phân Tích Khổ 2 Đoàn Thuyền Đánh Cá 💕 13 Bài Văn Hay
Phân Tích Khổ 1 Đoàn Thuyền Đánh Cá Facebook – Mẫu 8
Chia sẻ dưới đây bài văn mẫu phân tích khổ 1 Đoàn thuyền đánh cá Facebook để các em học sinh cùng tham khảo:
Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận được sáng tác vào năm 1958. Trong chuyến đi thực tế ở vùng Hồng Gai, Cẩm Phả, Quảng Ninh của ông. Đây là một sự kết hợp nhuần nhuyễn của hai nguồn cảm hứng: Cảm hứng lãng mạn tràn ngập niềm vui cuộc sống về lao động và cảm hứng về thiên nhiên vũ trụ. Sự gặp gỡ, phối hợp của hai nguồn cảm hứng này đã tạo nên những hình ảnh rộng lớn, lung linh tráng lệ như những bức tranh sơn mài. Và mở đầu bài thơ là hai câu thơ miêu tả cảnh hoàng hôn trên biển thật độc đáo và thú vị:
“Mặt trời xuống biển như hòn lửaSóng đã cài then, đêm sập cửa.Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,Câu hát căng buồm cùng gió khơi.”
Với sự liên tưởng độc đáo, nhà thơ miêu tả rất thực sự chuyển đổi thời khắc giữa ngày và đêm thật kỳ vĩ như thần thoại. Vũ trụ như một ngôi nhà rộng lớn mà ở đó màn đêm buông xuống là tấm cửa khổng lồ. Còn những lượn sóng gối đầu lên nhau trên biển là những chiếc then cài cửa.
Câu thơ khắc họa một bức tranh phong cảnh thần kỳ như thể nhà thơ có một cặp mắt thần và một trái tim nhạy cảm. Màn đêm mở ra đã khép lại không gian của một ngày, giữa lúc đất trời đang chuyển sang trạng thái nghỉ ngơi thì con người lại bắt đầu công việc của mình:.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơiCâu hát căng buồm cùng gió khơi”.
Hình ảnh ẩn dụ liên tưởng “câu hát căng buồm cùng gió khơi” đã làm rõ sự đối lập này,. Đồng thời cũng làm nổi bật tư thế lao động của con người trước biển cả. Hình ảnh “Câu hát căng buồm cùng gió khơi” còn là hình ảnh ẩn dụ tuyệt đẹp. Cánh buồm căng gió ra khơi là ẩn dụ cho tiếng hát của con người có sức mạnh làm căng cánh buồm.
Ngoài ra, câu hát ấy còn là niềm vui, niềm hứng khởi, say sưa của những con người lao động lạc quan, yêu nghề, yêu biển cả. Cảnh ra khơi huy hoàng đầu khí thế, hứa hẹn chuyến đi biển thắng lợi.
Chỉ với bốn câu thơ mà Huy Cận cũng miêu tả cảnh ra khơi thật sinh động và rõ nét. Tuy chỉ là cảnh ngày tàn mà vẫn ấm áp, vẫn tràn đầy niềm vui, niềm lạc quan của người lao động trên biển. Và không khí chung của bốn câu thơ mở đầu này đã chi phối không khí chung của cả bài thơ.
Giới thiệu cùng bạn 🍀 Phân Tích Khổ 3 Đoàn Thuyền Đánh Cá 🍀 12 Bài Văn Hay
Phân Tích Khổ 1 Và 2 Đoàn Thuyền Đánh Cá – Mẫu 9
Khi phân tích khổ 1 và 2 Đoàn thuyền đánh cá, các em học sinh cần bám sát theo những hình ảnh thơ. Tham khảo bài văn mẫu phân tích khổ 1 2 Đoàn thuyền đánh cá dưới đây:
Nhà thơ Huy Cận sinh năm 1919, trong một gia đình nông dân nghèo của tỉnh Hà Tĩnh. Ông từng tham gia hoạt động cách mạng trong nhiều năm và từng làm Chủ tịch Ủy ban Trung ương Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam. Huy Cận để lại cho văn học nước nhà khối lượng tác phẩm khá lớn và giá trị.
Nếu như trước năm 1945, ông thành công với tập thơ Lửa thiêng thì sau năm 1945, tập thơ Trời mỗi ngày lại sáng của ông gây được tiếng vang lớn trong văn đàn. Đó là niềm tự hào không chỉ của riêng tác giả mà còn là niềm vui lớn của người đọc khi được thưởng thức những đứa con tinh thần đầy mới mẻ.
Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá trích trong tập thơ Trời mỗi ngày lại sáng đã khắc họa những vẻ đẹp của thiên nhiên rộng lớn và hình ảnh những người lao động đầy hứng khởi. Đặc biệt hơn cả là bức tranh ra đoàn thuyền đánh cá ngày ra khơi được thể hiện trong hai khổ thơ đầu:
“ Mặt trời xuống biển như hòn lửaSóng đã cài then, đêm sập cửaĐoàn thuyền đánh cá lại ra khơiCâu hát căng buồm cùng gió khơi”
Trong nhiều bài thơ khác, cảnh chiều thường mang nét đượm buồn, gợi nhớ, gợi thương về quê hương thì Huy Cận lại vẽ cảnh chiều bằng nét đặc biệt, đầy kỳ vĩ và tràn trề sự sống. Ánh mặt trời trên quê hương lúc này đây tựa như một hòn lửa to lớn, khổng lồ và rực rỡ. Và khi ánh mặt trời ấy đang từ từ chìm vào đại dương, ngụp lặn mình dưới dòng nước mênh mông để nhường chỗ cho màn đêm xuống cũng là lúc mà người lao động bắt đầu công việc. Sóng kia cũng đã bắt đầu cài then, ánh sáng dần đóng sau then cửa của bóng đêm.
Vào thời khắc đặc biệt ấy, đoàn thuyền lại bắt đầu ra khơi. Nhà thơ Huy Cận đã rất thành công trong việc tái hiện hai trạng thái đối lập: Cảnh vật đang chìm vào giấc mộng đẹp – con người lại ra khơi, trong không gian tĩnh mịch của đêm tối, hoạt động sản xuất, đánh bắt càng trở nên náo nhiệt, khẩn trương hơn.
Từ “lại” giúp ta hiểu được rằng đó là một công việc thường xuyên của con người nơi đây, họ luôn chăm chỉ mỗi ngày. Từ ” lại” cũng giúp ta cảm nhận được một khí thế đầy hứng khởi của mọi người trong chuyến hành trình bắt cá tôm, họ đã sẵn sàng cho chuyến đi của mình. Chuyến đi ấy mang cả một tinh thần lạc quan, câu hát mang cả niềm hy vọng, niềm tin vào lúc trở về thuyền biển đầy cá tôm:
“Câu hát căng buồm cùng gió khơi”
Trong công việc của mình, đặc biệt là việc đánh bắt cá đầy vất vả, lại phải đi thường xuyên như thế làm sao không tránh khỏi những mệt nhọc, lo toan, nhưng ta không hề thấy họ than vãn một lời. Bắt đầu ra khơi bằng câu hát ân tình, câu hát ru màn đêm, ru biển cả, câu hát làm cánh buồm thêm sức sống, thêm căng gió ra khơi. Người lao động cất cao lời hát, con thuyền bắt đầu lướt sóng ra khơi đầy mạnh mẽ, tráng lệ, cảnh và người thống nhất, hài hoà.
” Hát rằng cá bạc biển Đông lặngCá thu biển Đông như đoàn thoiĐêm ngày dệt biển muôn luồng sángĐến dệt lưới ta đoàn cá ơi!”
Trong chiến đấu, câu hát về ước vọng hòa bình vang lên, trong lao động câu hát về vụ mùa bội thu được cất lên thì trong đánh cá lại không thể thiếu những câu hát về tôm cá, về ước mong biển giàu cá tôm. Câu hát của người dân vùng chài mang theo cả lời mời gọi, mời gọi những đoàn cá đang rong ruổi giữa mênh mông nước kia đến dệt lưới, đến đan ánh sáng vào tấm lưới đang miệt mài trong từng luồng nước dưới kia. Người ngư dân mong rằng trời lặng, sóng êm, gặp luồng cá thoi, cá thu thật lớn để đánh bắt được nhiều.
” Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!”
Lời thơ như tiếng hát ngọt ngào, ngân xa, lời thơ đầy ắp những ân tình của con người nơi biển cả, lời thơ đầy ắp cả những hy vọng, ước mong.
Chỉ với trọn vẹn 8 câu thơ đầu bài nhưng bằng cảm xúc chân thành, ngôn từ đã diết mà bình dị, giọng điệu khoẻ khoắn, tươi vui, tác giả đã khắc hoạ được cảnh dân chài ra khơi đầy hứng khởi, mang niềm vui và sự tin yêu dạt dào. Qua đoạn thơ, ta thấy được tâm hồn lạc quan, sự làm chủ của người lao động trong cuộc chinh phục thiên nhiên của mình. Dường như mọi người, ai ai cũng ra sức phấn đấu, ra sức lao động để dựng xây đời mới giàu đẹp hơn mỗi ngày.
Có thể bạn sẽ thích 🍀 Phân Tích 3 Khổ Đầu Bài Đoàn Thuyền Đánh Cá 🍀 10 Mẫu Hay Đặc Sắc Nhất
Phân Tích Khổ 2 Khổ Đầu Đoàn Thuyền Đánh Cá – Mẫu 10
Để giúp các em học sinh hoàn thành tốt đề văn phân tích khổ 2 khổ đầu Đoàn thuyền đánh cá, tham khảo dưới đây bài văn mẫu phân tích khổ thơ 1 2 Đoàn thuyền đánh cá đặc sắc.
Đã có rất nhiều nhà thơ, nhà văn lấy đề tài biển khơi và con người lao động làm cảm hứng cho những sáng tác của mình. Một trong những tác phẩm tiêu biểu cho chủ đề này mà chúng ta không thể không nhắc đến chính là bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận. Ngay ở hai khổ thơ đầu, tác giả đã dẫn dắt bạn đọc đến với khung cảnh thiên nhiên lúc con người ra khơi:
Mặt trời xuống biển như ngọn lửa.Sóng đã cài then đêm sập cửa.
Nghệ thuật so sánh và nhân hoá được sử dụng thật độc đáo. Mặt trời được ví như hòn lửa đang lặn dần vào lòng biển. Vũ trụ như một ngôi nhà lớn, màn đêm xuống mau khép lại ánh sáng như đóng sập cánh cửa khổng lồ mà những lượn sóng là chiếc then cài. Ngày đã khép lại, vũ trụ như đang bước vào trạng thái thư giãn sau một ngày lao động thì chính lúc ấy một ngày lao động mới của người dân đánh cá lại bắt đầu:
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Khi vị chủ nhân thứ nhất của thiên nhiên là mặt trời đi ngủ thì vị chủ nhân thứ hai – những người dân chài của cuộc sống mới lại mở cửa đêm để ra biển đánh cá. Công việc của những người dân chài diễn ra như một nhịp sống đều đặn trở thành quen thuộc, nền nếp. Nếu như sức sống của thiên nhiên như ngừng lại thì sự có mặt của đoàn thuyền như nối tiếp nhịp sống đó.
Dù đã cài then, sập cửa nhưng biển không chìm trong lạnh lẽo hoang vu mà trái lại biển đang là chứng nhân cho sự làm việc hăng say, không nghỉ của những người lao động. Câu thơ xuất hiện ba sự vật khác biệt là câu hát, căng buồm và gió khơi nhưng lại được gắn kết, hòa quyện với nhau. Tiếng hát khỏe khoắn của cả tập thể hòa với tiếng gió thổi căng buồm đẩy thuyền phăng phăng rẽ sóng. Câu hát là niềm tin, sự phấn chấn của người lao động.
Sự kết hợp của nhịp điệu gấp gáp khẩn trương ở hai câu đầu với cái thanh thoát, đĩnh đạc của nhịp thơ hai câu sau đã vẽ nên bức tranh hào hùng về cảnh đoàn thuyền ra khơi. Khổ thơ còn là sự kết hợp của những liên tưởng táo bạo với những phép tu từ so sánh, nhân hoá đặc sắc đã giúp tác giả thể hiện khúc ca ra khơi hào hùng của người dân chài.
Không chỉ hát khi ra khơi mà những con người lao động luôn cất tiếng hát hòa cùng với công việc của mình. Tiếng hát là mong ước, là niềm tin thu hoạch:
Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,Cá thu biển Đông như đoàn thoi.
Từ con cá bạc báo biển lặng, biển hiện lên trong đêm như một khung cửi lớn và đẹp. Cá thu từng đoàn rẽ nước toả sáng, di chuyển như những con thoi. Sự liên tưởng từ khung cửi dệt đến khung cửa biển là sự liên tưởng độc đáo, là kết quả của sự quan sát thực tế. Qua sự liên tưởng ấy, trong cảm xúc vũ trụ của Huy Cận biển không còn xa lạ mà trở nên gần gũi. Trong lời hát của người ngư dân, biển thật giàu có:
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!
Nguyên liệu biển dồi dào, chỉ cần một tiếng gọi để thu cá vào lưới. Khổ thơ mang âm hưởng của dòng cảm hứng vũ trụ với sự lãng mạn của tâm hồn đã làm nên những khúc ca hoành tráng của người lao động.
Hai khổ thơ mở ra trước mắt bạn đọc thiên nhiên tươi đẹp và hình ảnh con người tràn đầy sức sống. Khổ thơ nói riêng và bài thơ nói chung đã góp phần làm cho kho tàng văn học Việt Nam thêm phong phú, đa dạng hơn. Nhiều năm tháng qua đi nhưng bài thơ vẫn giữ nguyên vẹn những giá trị tốt đẹp ban đầu của nó và để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc.
Tiếp theo đón đọc 💧 Phân Tích Khổ 5 Đoàn Thuyền Đánh Cá 💧 13 Bài Văn Hay
Phân Tích Khổ 3 Khổ Đầu Đoàn Thuyền Đánh Cá – Mẫu 11
Đón đọc bài văn mẫu phân tích khổ 3 khổ đầu Đoàn thuyền đánh cá dưới đây với những ý văn phân tích chặt chẽ và sinh động.
Nếu trước cách mạng, hồn thơ Huy Cận mang nỗi buồn vạn kỷ thì sau chuyến đi thực tế ở vùng mỏ Quảng Ninh làm nảy nở trở lại thi hứng của nhà thơ. Bài thơ “ Đoàn thuyền” ra đời trong thời gian ấy, đó là niềm vui trước cuộc sống hối hả và thiên nhiên đất nước.
Trong 3 khổ thơ đầu, cuộc hành trình của đoàn thuyền đánh cá mở ra trước mắt người đọc. Không gian đất trời rộng lớn được khắc họa qua vài nét chấm phá tài hoa, hình ảnh một ngày tàn hiện lên thơ mộng nơi biển cả mênh mông:
“Mặt trời xuống biển như hòn lửaSóng đã cài then đêm sập cửa”
Hình ảnh so sánh độc đáo ông mặt trời khổng lồ như hòn lửa đang từ từ lặn xuống phía đại dương và gồng mình gom lại những tia nắng trong ngày tạo nên không gian hùng vĩ. Liên tưởng táo bạo của tác giả kết hợp với biện pháp nhân hóa biến “ sóng” như một sinh thể cài cửa khi màn đêm buông xuống. Qua đó giúp người đọc hình dung vũ trụ như một ngôi nhà lớn chứa đầy bí ẩn sau bức màn đen huyền bí. Bóng tối bao trùm là lúc các hoạt động tạm dừng lại nhưng hình ảnh đoàn thuyền đánh cá phác họa trên nền bức tranh rộng lớn:
“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơiCâu hát căng buồm cùng gió khơi”
Hình ảnh hoán dụ “ đoàn thuyền, câu hát” chỉ người dân chài lưới bắt đầu cuộc hành trình khám phá đại dương bao la. Câu ca ngân vang gợi khí thế hào sảng, tươi vui tràn đầy năng lượng. Tinh thần lạc quan ấy ta từng bắt gặp trong dòng suy nghĩ của ông lão đánh cá trong tiểu thuyết “ Ông già và biển cả”. Lời hát cất lên thật ý nghĩa:
“Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,Cá thu biển Đông như đoàn thoiĐêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!”
Câu hát luôn đồng hành cùng chặng đường gian nan phía trước của người dân chài. Họ ngợi ca sự giàu có của biển Đông “ cá bạc, cá thu như đoàn thoi”, ý thơ gợi sự trù phú của biển cả “ rừng vàng biển bạc”, như thuyền trưởng Ne-mo trong tiểu thuyết “ Hai vạn dặm dưới đáy biển” từng tự hào về nguồn tài nguyên bất tận đó.
Trong câu ca còn chứa đựng mong ước của người dân về một chuyến ra khơi bình an: biển lặng, bội thu : dệt lưới, từng đoàn cá như người bạn gần gũi song hành cùng đoàn thuyền. Chúng kết thành luồng sáng để dẫn đường cho họ và lời gọi “ đoàn cá ơi!” cũng khẳng định tình cảm đặc biệt giữa người dân và biển mẹ. Con thuyền no gió biển khơi lướt đi hiên ngang giữa lòng biển vô cùng khơi dậy hình ảnh sống động:
“Thuyền ta lái gió với buồm trăngLướt giữa mây cao với biển bằng,Ra đậu dặm xa dò bụng biển,Dàn đan thế trận lưới vây giăng.”
Những chuyến ra khơi cô đơn bởi thiên nhiên ưu ái cũng kề vai sát cánh cùng con người. Bút pháp phóng đại gợi trong ta trưởng liên tưởng: sức gió làm bánh lái đưa con thuyền ra biển căng tràn năng lượng như con tuấn mã, vầng trăng làm cánh buồm, thiên nhiên cũng góp sức cùng con người và người lao động đã làm chủ thiên nhiên. Một loạt động từ “ lướt, ra đậu, dò, dàn thế trận” không chỉ gợi tốc độ phi thường mà còn hành động dứt khoát của đoàn thuyền trước thế trận của biển cả.
Trong 3 khổ thơ đầu của tác phẩm, trên bức phông nền thiên nhiên bao la, chân dung con người bỗng trở nên cao lớn, cao rộng. Thêm vào là nhịp thơ cổ điển thất ngôn cân đối, trang trọng, toát ra một âm hưởng lãng mạn ngợi ca hùng tráng. Phải có một tình yêu sâu nặng, gắn bó dài lâu bền chặt với cuộc sống, với quê hương, đất nước, nhà thơ Huy Cận mới biểu hiện một cách thấm thía, sảng khoái đến thế niềm vui, lòng mến phục và tự hào trước nhiên nhiên kỳ ảo, trước sức sống và bàn tay lao động của con người.
Kỷ niệm 70 tuổi đời, ngót chục năm tuổi làm thơ, trả lời phỏng vấn viên báo Văn nghệ về sự tâm đắc nhất trong sáng tác, nhà thơ Huy Cận nói: “Con người sống trong xã hội và sống trong vũ trụ. Đó là hai cực của cuộc sống, hai cực của tư tưởng, hai cực của thơ …” Vẻ đẹp của vũ trụ và vẻ đẹp của con người, nhất là những con người đã được giải phóng đang làm chủ cuộc đời, hòa đồng với vũ trụ, nguồn cảm hứng lớn trong thơ Huy Cận, đã tạo nên những vần thơ đẹp, làm giàu làm đẹp thêm cho trí tuệ và tâm hồn mỗi chúng ta.
Đọc nhiều hơn với 🔥 Phân Tích Khổ 4 Đoàn Thuyền Đánh Cá 🔥 10 Mẫu Hay Nhất
Phân Tích Khổ 1 2 3 Đoàn Thuyền Đánh Cá Đặc Sắc – Mẫu 12
Tham khảo bài văn mẫu phân tích khổ 1 2 3 Đoàn thuyền đánh cá dưới đây để chắt lọc và trau dồi cho mình những ý văn hay, đặc sắc.
Kháng chiến chống Pháp thắng lợi, cả dân tộc ta hồ hởi trong niềm vui của độc lập, của tự do mà suốt bao năm vất vả mới có được. Chung trong niềm vui tươi ấy, người dân cả nước cùng bắt tay nhau lao động, xây dựng khôi phục đất nước sau chiến tranh. Và cùng trong thời gian này, nhà thơ Huy Cận đã có một chuyến đi thực tế ở Hòn Gai, Quảng Ninh.
Tại đây, Huy Cận đã được tận mắt ngắm nhìn những đoàn thuyền đánh cá nhộn nhịp, những con người lao động hăng say, tấp nập cùng nhau căng buồm ra khơi và đó là nguồn cảm hứng để ông đã viết lên tác phẩm “Đoàn thuyền đánh cá”.
Bài thơ là lời ca ngợi sự giàu đẹp của quê hương Việt Nam “rừng vàng biển bạc” cùng vẻ đẹp của thiên nhiên, của con người lao động hăng say thi đua sản xuất trong thời kì mới – thời kì đi lên xây dựng xã hội chủ nghĩa, làm giàu cho quê hương. Trong đó, ba khổ đầu tiên của bài thơ là những hình ảnh đẹp nhất bao trọn toàn bài thơ:
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa…Dàn đan thế trận lưới vây giăng”.
Sau những năm tháng nghỉ ngơi, hồn thơ của Huy Cận dường như chưa tìm thấy được niềm cảm hứng mới mẻ. Mãi đến tận năm 1958, trong chuyến đi tới Hòn Gai, Quảng Ninh, được đắm mình, say mê ngắm nhìn những con người làng chài đang hăng say tiến ra biển lớn, ông mới tìm lại được niềm hứng khởi, say mê, nguồn cảm hứng mới mẻ.
Hồn thơ trong ông lại nảy nở trở lại, dào dạt một niềm say mê với vẻ đẹp thiên nhiên, con người đất nước trong niềm vui trước cuộc sống lao động mới. Và thế là Đoàn thuyền đánh cá đã ra đời và cùng được in trong tập thơ nổi tiếng của ông “Trời mỗi ngày lại sáng”. Ba khổ thơ đầu của bài thơ là vẻ đẹp của thiên nhiên cùng con người lao động hòa quyện cùng nhau tạo nên một bức tranh đặc sắc.
Mở đầu bài thơ, bằng đôi mắt tinh tế đầy lãng mạn của mình, và bằng trí tưởng tượng phong phú, Huy Cận đã vẽ ra trước mắt người đọc khung cảnh thiên nhiên của một buổi hoàng hôn đẹp lộng lẫy. Điểm xuyết trong không gian kì vĩ đó, hình ảnh của những con người lao động cũng hiện lên thật rực rỡ, sống động tới mức kinh ngạc:
“Mặt trời xuống biển như hòn lửaSóng đã cài then đêm sập cửaĐoàn thuyền đánh cá lại ra khơiCâu hát căng buồm cùng gió khơi”
Hai câu thơ đầu, Huy Cận đã phác họa lên bức tranh về hoàng hôn tráng lệ trên mặt biển lớn.
“Mặt trời xuống biển như hòn lửaSóng đã cài then đêm sập cửa”
Câu thơ ấy đã mở ra cái không gian rộng lớn của vũ trụ bao la, có mặt trời, có biển rộng với những con sóng ùa nhau nối dài. Vầng mặt trời đỏ ối đang từ từ lui dần về phía chân trời rộng trên nền của mặt nước mênh mang. Hình ảnh mặt trời vốn không hiếm trong thi ca Việt, thế nhưng, Huy Cận lại mang tới một xúc cảm mới khi ông gọi mặt trời đang xuống biển kia “hòn lửa” vừa đỏ rực lại vừa nóng bỏng.
Trong không gian mênh mông của nước biển, mặt trời nổi bật lên trên nền xanh biếc của nước, tỏa những ánh nắng cuối cùng màu đỏ ối xuống mặt biển xanh, nhuộm màu cả một vùng biển lớn. Màu đỏ ấy thật nổi bật, thật rực rỡ và sinh động. Câu so sánh ngắn gọn là vậy, nhưng chỉ cần vậy thôi, buổi hoàng hôn trong thơ Huy Cận đã hiện lên thật đẹp biết chừng nào. Và càng đẹp hơn, khi hình ảnh những con sóng biếc hiện lên trên nền mênh mông sóng nước:
“Sóng đã cài then, đêm sập cửa”
Từng con sóng gợn lăn tăn, nối đuôi nhau vỗ nhè nhẹ vào bờ cát. Thế nhưng, trước con mắt lãng mạn Huy Cận, nó lại biến thành những chiếc then cửa lớn. Từng con sóng ấy đang cài những chiếc khóa, chiếc then để khép lại một ngày dài rực rỡ để nhường chỗ cho đêm đen tĩnh lặng. Phải nói, chưa có hình ảnh so sánh nào trong thơ ca Việt lại đặc biệt và đắt giá như hình ảnh này trong thơ Huy Cận! Nếu không có trí tưởng tượng thật tinh tế, làm sao ông có thể liên tưởng đến những hình ảnh thơ đặc sắc đến nhường ấy được chứ?
Những con sóng đang đóng dần tấm màn ban ngày, cánh cửa của màn đêm cũng đang được kéo lên rồi “sập cửa”. Vũ trụ trước mắt Huy Cận như một ngôi nhà khổng lồ và màn đêm chính là tấm của ngăn cách ánh sáng ban ngày, những con sóng là những chiếc then chốt cửa. Thời gian và không gian được xoay chuyển dần dần, một ngày sôi động đã khép lại, nhường chỗ cho không gian yên tĩnh của màn đêm.
Ẩn trong lời thơ của Huy Cận, người ta thấy sự vận động nhanh chóng của thời gian, không chỉ qua nhịp thơ cứ dồn dập liên tiếp, qua cách ngắt nhịp nhanh 4/4 trong câu thơ thứ hai, mà còn trong cách gieo vần “lửa-cửa” nữa. Có thể nói, chỉ bằng hai câu thơ, Huy Cận đã vẽ lên bức tranh hoàng hôn trên biển đẹp lộng lẫy đến nhường nào, thiên nhiên hiện lên thật rộng lớn, bao la! Vũ trụ đang bước những bước chân về ngơi nghỉ sau một ngày dài vất vả.
Thế nhưng đối lập với hình ảnh nghỉ ngơi ấy của thiên nhiên, vũ trụ, con người bây giờ đây lại nhộn nhịp, tấp nập hơn để chuẩn bị cho công việc của mình:
“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơiCâu hát căng buồm cùng gió khơi”
Mặt trời vừa khuất sau chân trời thì con người lại bắt đầu công việc của mình. Đoàn thuyền đánh cá ra khơi với khí thế đầy hào hùng. Ở đây, có một sự tương phản thật đặc sắc mà Huy Cận đã tạo nên: ngày tàn – đêm mở, vũ trụ tĩnh lặng – con người sôi động, vũ trụ nghỉ ngơi – con người làm việc.
Giữa cái tĩnh mịch của không gian, hình ảnh con người hiện lên thật rạng rỡ. Một đoàn thuyền cùng nhau rời bến, căng buồm ra khơi giữa thiên nhiên bao la. Ở đây, Huy Cận không nói một con thuyền, một chiếc thuyền cụ thể nào mà ông nói “đoàn thuyền” – tức nhiều con thuyền gộp lại.
Đọc câu thơ lên, người đọc cảm nhận được cái khí thế lớn lao mà đoàn thuyền kia mang đến, đó là sức mạnh của tinh thần tập thể, của tình đoàn kết. Nhịp điệu trong câu thơ này không còn gấp gáp như trong câu thơ trên, nó nhẹ nhàng hơn nhưng cũng không kém phần giàu ý nghĩa. Đoàn thuyền ra khơi không phải lần đầu mà là “lại ra khơi” – đó là sự lặp đi lặp lại nhiều lần, có chu kì cẩn thận. Chỉ một từ “lại” thôi nhưng thật đắt giá biết mấy: Đoàn thuyền của chúng ta “lại” ra khơi rồi.
Ra khơi, giữa mênh mông là sóng nước, biết bao vất vả, gian lao đang chờ đón những con người lao động ấy, thế mà họ vẫn lạc quan, vui vẻ, cất những câu hát yêu đời. Đó là tiếng hát ca ngợi thiên nhiên, ca ngợi tinh thần đoàn kết của con người. Tiếng hát ấy hòa quyện trong gió biển, thổi căng tấm buồm lớn, giúp họ băng nhanh ra biển lớn để gặt hái những thành quả. Cánh buồm của đoàn thuyền no gió, no tiếng hát cùng con người rẽ sóng ra khơi.
Đi tới gian khổ, vất vả, thế nhưng chẳng hề lo sợ, chẳng hề gấp gáp, mệt mỏi, hay hoang mang đó là biểu hiện của sự lạc quan, yêu đời của những con người vừa đứng lên từ bùn đất, “rũ bùn dậy sáng lòa”, bởi giờ đây họ đang được làm chủ chính cuộc đời của mình, được làm chủ cả biển khơi nữa.
Hình ảnh con người trong câu thơ hiện lên thật choáng ngợp. Họ đứng lên, sánh ngang tầm với thiên nhiên, vũ trụ. Họ hòa quyện cùng thiên nhiên, vừa phóng khoáng, vừa cao lớn, đẹp đẽ. Niềm vui, khí thế lao động đã tạo nên vẻ đẹp của con người ở đây.
Vẫn nối tiếp câu hát ở khổ thơ trên, khổ thơ thứ hai, Huy Cận đã mang đến một hình ảnh khác. Đó là hình ảnh mang vẻ đẹp của thiên nhiên cùng ước mong thu hoạch lớn của con người.
“Hát rằng: cá bạc biển Đông lặngCá thu biển Đông như đoàn thoiĐêm ngày dệt biển muôn luồng sángĐến dệt lưới ta đoàn cá ơi!”
Một khúc hát khỏe khoắn của những người con miền biển đang được cất lên giữa biển khơi bao la. Đó là câu hát với ước mong biển lặng trời yên, niềm mong ước đánh bắt được thật nhiều cá để làm giàu cho quê hương, cho đất nước. Họ đang cất lên khúc ca, ca ngợi những loài cá của biển cả, tiếng hát gọi cá của con người.
Nối tiếp những liên tưởng thật độc đáo ở khổ thơ trước, trong khổ thơ này, Huy Cận đã có một liên tưởng thật thú vị. Những con cá thu mình thon dài được ông so sánh như những chiếc thoi dệt vải. Những chiếc thoi ấy đang lao nhanh trên mặt nước, trở thành một “đoàn thoi” thật đông đúc, mạnh mẽ. Và biển cả giờ đây biến thành tấm thảm lớn, đang sáng lóng lánh lên bởi ánh phản chiếu của những ngọn đèn trên thuyền, để những chiếc thoi kia dệt lên “muôn luồng sáng”.
Đã có một sự liên tưởng nào độc đáo hơn sự liên tưởng này của Huy Cận chăng? Biển cả giờ đây trở lên thật lung linh, huyền ảo, thật lộng lẫy như tấm màn nhung đen huyền điểm thêm ánh vàng lóng lánh, tinh khôi.
Giữa cái đẹp rực rỡ ấy, Huy Cận lại tiếp tục cất tiếng gọi:
“Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!”
Một tiếng gọi thân thương như tiếng gọi của một con người. Đoàn cá ơi, hãy đến dệt lưới ta đi, hãy cho ta một mẻ cá lớn, thật bội thu! Đó chẳng phải cũng là tiếng gọi của ước vọng đánh bắt được thật nhiều cá của người lao động trên đoàn thuyền kia sao? Dệt biển rồi lại dệt lưới, công việc vốn vất vả, giờ đây lại chỉ như việc se chỉ luồn kim, dệt vải nhẹ nhàng! Quả thật, niềm vui, niềm hăng say lao động đã làm tan biến bao nhọc nhằn, vất vả của con người, để họ tiếp tục công cuộc chiến đấu chinh phục thiên nhiên.
Đoàn thuyền đang ở giữa mênh mông của sóng nước, giữa mênh mông của không gian vũ trụ rộng lớn bao la:
“Thuyền ta lái gió với buồm trăngLướt giữa mây cao với biển bằngRa đậu dặm xa dò bụng biểnDàn đan thế trận lưới vây giăng”
Những con thuyền đánh cá trong đoàn thuyền của Huy Cận vốn chỉ là những con thuyền bình thường, nhỏ bé, gần gũi với chúng ta. Thế nhưng, giờ đây, khi đứng giữa biển lớn, những con thuyền ấy đột nhiên lớn bổng lên, to lớn với kích thước thật khổng lồ mà hòa nhập với thiên nhiên và vũ trụ. Nó không còn là đoàn thuyền nhỏ bé nữa, nó là con thuyền với bánh lái là gió, buồm là ánh trăng cao, lướt đi giữa mênh mang mây và biển.
Bằng những hình ảnh “lái gió, buồm trăng, mây cao, biển bằng”, Huy Cận đã biến những con thuyền vốn bình thường, gần gũi trở lên con thuyền kì vĩ của thiên nhiên, đang lướt giữa không trung rộng lớn cùng trăng và gió chứ không còn là trên mặt biển nữa. Biển và bầu trời đêm đã hòa làm một. Ở đây, con người đã chẳng phải là một vật thể nhỏ bé giữa vũ trụ bao la nữa mà là một tư thế hiên ngang, sánh ngang tầm, làm chủ thiên nhiên và vũ trụ, biến thiên nhiên thành người bạn của mình.
Giữa không gian thâm sâu khó lường của biển cả mênh mang, đoàn thuyền đang thăm dò “bụng biển”. “Dò bụng biển” – phải chăng đây là hành động dò tìm, kiếm tìm những đàn cá lớn giữa biển cả bao la? Đến khi “dò” kiếm được đàn cá lớn, giữa cái mênh mông ấy, đoàn thuyền “dàn đan thế trận lưới vây giăng”. Hình ảnh thơ thật lãng mạn biết chừng nào!
Giữa không gian bao la ấy, con người thật nhỏ bé nhưng cũng thật kiên cường. Họ đang chiến đấu cùng với thiên nhiên bằng trí tuệ và năng lực nghề nghiệp của mình để mang về những thành quả lớn. Công việc của họ vất vả, gian khổ như thế, nhưng họ vẫn cất cao tiếng hát yêu đời, lạc quan, biến một công việc khó khăn trở thành một công việc đầy ắp tiếng cười và niềm vui hạnh phúc.
Trên nền thiên nhiên hùng vĩ, con người lao động hiện lên với vẻ đẹp thật rạng rỡ. Vẻ đẹp của họ hòa quyện cùng vẻ đẹp của thiên nhiên tạo nên bức tranh lao động thật hào hùng, thật màu sắc, vừa hiện thực lại cũng thật lãng mạn biết bao.
Chỉ với ba khổ thơ ngắn trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá, người đọc cũng đủ thấy rõ tài năng của Huy Cận. Bằng bút pháp hiện thực pha lẫn lãng mạn, ông đã tạo nên một bức tranh tổng hòa giữa thiên nhiên và con người lao động thật đẹp biết nhường nào. Cùng với đó, nghệ thuật miêu tả, so sánh, nhân hóa, phóng đại được Huy Cận sử dụng thật nhuần nhuyễn, góp phần tạo nên vẻ đẹp cho bức tranh tổng hòa. Đặc biệt là cách ngắt nhịp thơ độc đáo trong từng câu thơ đã tạo nên sắc thái rộn ràng, hào hứng.
Ba khổ thơ trong bài là vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước và con người Việt Nam. Vẻ đẹp đó hòa quyện cùng nhau tạo nên một bức tranh vô cùng sinh động của những con người miền biển Quảng Ninh. Và cũng qua chuyến thăm Hòn Gai, Quảng Ninh, hồn thơ của Huy Cận đã được tiếp thêm một nguồn sống mới, mãnh liệt và dào dạt hơn. Huy Cận đã có cái nhìn mới về cuộc sống và thiên nhiên con người đất nước Việt Nam. Và đó chính là nguồn cảm hứng giúp ông viết lên Đoàn thuyền đánh cá vô cùng đặc sắc này.
Mời bạn xem nhiều hơn 🌟 Phân Tích 2 Khổ Cuối Bài Đoàn Thuyền Đánh Cá 🌟 10 Mẫu Đặc Sắc Nhất
Phân Tích Khổ 1 7 Đoàn Thuyền Đánh Cá – Mẫu 13
Bài văn phân tích khổ 1 7 Đoàn thuyền đánh cá dưới đây sẽ là nội dung tham khảo cần thiết cho các em học sinh trong quá trình làm bài.
Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận là một thể thống nhất, cảm xúc phát triển theo hành trình một chuyến ra khơi của đoàn thuyền đánh cá, từ lúc bắt đầu và kết thúc.Thời điểm khác với mọi hành động trên đất liền là từ khi mặt trời lặn đến lúc bình minh lên. Nếu bài thơ là khúc tráng ca ca ngợi lao động tập thể và người lao động trên biển thì khổ thơ mở đầu là khúc hát ra khơi và khổ kết là khúc khải hoàn trở về sau một đêm hăng say lao động và thắng lợi trở về của người lao động.
Mở đầu bài thơ là khúc hát lên đường của người lao động trên biển cả.
“Mặt trời xuống biển như hòn lửaSóng đã cài then, đêm sập cửa.Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,Câu hát căng buồm cùng gió khơi”
Hai câu thơ mở đầu khái quát thời điểm xuất phát của đoàn thuyền đánh cá bằng hình ảnh đẹp tráng lệ. Nghệ thuật nhân hóa so sánh của thiên nhiên trên biển. Biển lúc hoàng hôn tưởng tượng như một ngôi nhà lớn có động tác như con người. ” Tắt lửa, cài then, sập cửa” màn đêm như tấm cửa sập xuống.
Đóng lại một ngày nghỉ ngơi nhưng đó lại là lúc dân chài ra khơi cất tiếng hát căng buồm xuôi gió khơi. Cái khí thế bắt đầu của lao động thật hào hứng, phấn khởi của con người. Hình ảnh cánh buồm gió khơi và câu hát tạo ra khung cảnh vừa thực vừa lãng mạn, tâm tư con người gửi gắm trong câu hát: Phấn khởi, mê say với công việc hi vọng và tự hào về sự giàu đẹp của biển quê hương.
Lúc ra khơi đầy hứng khởi và lúc trở về đầy tôm cá, khí thế niềm vui càng lo hơn.
“Câu hát căng buồm với gió khơi,Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.Mặt trời đội biển nhô màu mớiMắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.”
Nếu khổ đầu nói lên thời điểm xuất phát thì khổ cuối là thời điểm trở về. Điểm xuất phát lúc mặt trời xuống biển đỏ như hòn lửa thì lúc trở về bình minh mặt trời đội biển lên mang theo một màu mới khép kín một chu trình thời gian và cũng là hoàn thiện một chu trình làm việc của dân chài.
Đoàn thuyền lúc này cá đầy khoang, gương buồm chạy đua cùng mặt trời, hình ảnh thật rực rỡ, tráng lệ, khúc hát trở về là khúc ca khải hoàn của người lao động, vẫn khí thế như lúc ra đi hồ hởi, phấn khởi trong niềm vui chiến thắng. Khổ thơ sử dụng nhiều thư phát nghệ thuật ẩn dụ, hình ảnh đẹp tráng lệ tạo lên bức tranh trên biển đẹp hào hùng. Đặc biệt là tiếng hát ngân nga suốt bài thơ. Mỏ đầu và kết thúc đó là tiếng hát lạc quan yêu đời, yêu cuộc sống của người lao động.
Hai khổ thơ đầu và cuối được đánh giá đặc sắc nhất trong bài thơ có sự đối lập về hình ảnh thời gian, không gian và có thể coi là một chu trình khép kín hành trình của ngư dân lao động trên biển. Niềm vui khí thế phấn khởi không chỉ người lao động và đó cũng là niềm vui của nhà thơ trước khung cảnh thiên nhiên và cuộc sống lớn của thiên nhiên đất trời.
Tham khảo văn mẫu 🌟 Phân Tích Khổ Cuối Bài Đoàn Thuyền Đánh Cá 🌟 12 Mẫu Hay Và Đặc Sắc Nhất
Phân Tích Khổ 1 2 7 Đoàn Thuyền Đánh Cá – Mẫu 14
Dưới đây chia sẻ gợi ý phân tích khổ 1 2 7 Đoàn thuyền đánh cá để các em học sinh cùng tham khảo và vận dụng cho bài viết của mình.
Đến trang thơ của Huy Cận, có lẽ người đọc cảm thấy ấn tượng với bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”. Tác phẩm đã khắc họa vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước, sự giàu có của biển khơi.
“Đoàn thuyền đánh cá” được Huy Cận sáng tác năm 1958 trong một chuyến đi thực tế dài ngày ở Hòn Gai. Huy Cận đã vẽ lên trước mắt chúng ta khung cảnh lao động hăng say trên biển. Bằng một đôi mắt quan sát sắc sảo, trí tưởng tượng phong phú, cũng như một trái tim nhạy cảm và tài năng nghệ thuật điêu luyện, Khi đọc bài thơ, chúng ta có thể tưởng tượng bài thơ giống như một bức tranh đầy màu sắc, sự sống.
Trong khổ thơ thứ nhất, nhà thơ đã khắc họa vẻ đẹp của thiên nhiên, cũng như hình ảnh đoàn thuyền khi ra khơi:
“Mặt trời xuống biển như hòn lửaSóng đã cài then đêm sập cửaĐoàn thuyền đánh cá lại ra khơiCâu hát căng buồm với gió khơi”
Đoàn thuyền rời bến khi hoàng hôn buông xuống, mặt trời sau một ngày làm việc mệt nhọc chuẩn bị nghỉ ngơi. Cách so sánh “mặt trời xuống biển như hòn lửa” khiến cho bức tranh thiên nhiên tràn ngập màu đỏ rực đang. Mặt trời đang dần lặn xuống lòng đại dương mênh mông. Khi ấy màn đêm dần buông xuống.
Biển giống như một gian phòng lớn của thiên nhiên mà ở đó “sóng đã cài then đêm sập cửa”. Chính lúc đó, người ngư dân mới bắt tay vào công việc đã quá quen thuộc là ra khơi đánh cá. Đoàn thuyền ra khơi, người lao động cất vang tiếng hát hòa với gió, thổi căng buồm đưa đoàn thuyền ra khơi. Lời hát đã ca ngợi sự giàu có và hào phóng của biển cả cùng vẻ đẹp lung linh, diệu kì của nó trong đêm:
“Hát rằng cá bạc biển đông lặngCá thu biển đông như đoàn thoiĐêm ngày dệt biển muôn luồng sángĐến dệt lưới ta đoàn cá ơi!”
Vẻ đẹp của biển cả đã làm công việc lao động vơi đi phần nào. Cảnh đánh cá trong đêm được nhà thơ miêu tả bằng cảm hứng trữ tình mãnh liệt. Huy Cận giống như đang trực tiếp lao động cùng những người ngư dân và có những trải nghiệm thật chân thực, tinh tế.
Kết lại, khổ thơ cuối cùng miêu tả cảnh trở về của đoàn thuyền đánh cá:
“Câu hát căng buồm với gió khơiĐoàn thuyền chạy đua cùng mặt trờiMặt trời đội biển nhô màu mớiMắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”
Tiếng hát xuất hiện từ đầu đến cuối bài thơ. Tiếng hát hoà trong gió, thổi căng buồm đưa đoàn người ra khơi đêm trước nay lại cùng đoàn thuyền đầy ắp cá hân hoan về bến. Hình ảnh “đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời” vừa tả thực mà cũng vừa mang ý nghĩa biểu tượng. Đó là thói quen lâu đời của người ngư dân, khi phải đem cá về bến trước khi trời sáng. Cũng là tâm thế sẵn sàng của họ trước một chuyến lao động mới.
Qua các khổ 1, 2 và 7 bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”, người đọc cảm nhận được công việc lao động hăng say của những người ngư dân, cũng như thêm tự hào về thiên nhiên, con người Việt Nam trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Đừng bỏ qua 🔥 Sơ Đồ Tư Duy Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính 🔥 12 Mẫu Ngắn Gọn Và Đầy Đủ