Văn mẫu lớp 9: Cảm nhận của em về đoạn thơ 3, 4, 5, 6 bài Đoàn thuyền đánh cá Dàn ý & 5 bài văn hay lớp 9 (Sơ đồ tư duy)
Cảm nhận khổ 3, 4, 5, 6 bài thơ Đoàn thuyền đánh cá tuyển chọn 5 mẫu hay, đặc sắc nhất, giúp các em học sinh lớp 9 có thêm nhiều thông tin bổ ích, thấy rõ vẻ đẹp huy hoàng, kỳ vĩ của thiên nhiên cùng những người lao động nơi đây.
Khổ 3, 4, 5, 6 bài thơ Đoàn thuyền đánh cá, còn giúp người đọc cảm nhận được tinh thần lao động hăng say, cùng sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động, niềm tin vào một tương lai tươi sáng. Chi tiết mời các em cùng theo dõi bài viết dưới đây của Download.vn để ngày càng học tốt môn Văn 9.
Sơ đồ tư duy Cảm nhận khổ 3, 4, 5, 6 Đoàn thuyền đánh cá
Dàn ý cảm nhận khổ thơ 3, 4, 5, 6 bài Đoàn thuyền đánh cá
1. Mở bài
- Giới thiệu sơ lược bài thơ Đoàn thuyền đánh cá
- Dẫn dắt vào các khổ 3, 4, 5, 6 bài thơ
2. Thân bài
a. Khổ 3:
- Gió căng buồm cùng người lái thuyền vượt sóng, buồm chở trăng vượt biển, lướt mây.
- Động từ “lướt” được đặt đầu câu cho thấy khí thế phơi phới trong hoạt động lái thuyền, vượt biển.
- “Ra đậu dặm xa dò bụng biển”: tìm kiếm những nguồn cá tôm dồi dào.
- “Dàn đan thế trận lưới vây giăng”: cuộc chinh phục thiên nhiên, cuộc đấu trí
=> Công việc đánh cá hiện lên vừa chân thực lại không kém phần lãng mạn
b. Khổ 4:
- Thủ pháp liệt kê: cá nhụ, cá chim, cá đé, cá song,…..=> Biển giàu có
- Cá song “lấp lánh đuốc đen hồng” nổi bật trong làn nước của biển đêm, “quẫy – trăng vàng choé”: lung linh.
- Nghệ thuật nhân hoá “em” ” “Đêm thở”, “sao lùa”: sự gần gũi, thân thương
c. Khổ 5
- Câu hát thiết tha, ân tình mang niềm tin, hy vọng
- Lời cảm ơn chân thành và tấm lòng ngợi ca, trân trọng của con người dành cho biển cả
d. Khổ 6
- Hình ảnh dẻo dai, khoẻ khoắn của người dân chài trong lao động: kéo xoăn tay – chùm cá nặng
- Thành quả xứng đáng nhận được sau cuộc hành trình vất vả: vẩy bạc – đuôi vàng
- Niềm tin, niềm hy vọng một tương lai huy hoàng, tươi đẹp: buồm lên – nắng hồng
3. Kết bài
- Khẳng định lại vẻ đẹp của các khổ thơ
Cảm nhận khổ 3, 4, 5, 6 Đoàn thuyền đánh cá
Bài thơ đoàn thuyền đánh cá là một khúc tráng ca, ca ngợi thiên nhiên và con người trong thời đại mới. Mỗi một phần của bài thơ giống một khúc ca đầy hào sảng và say mê. Bốn khổ thơ 3-4-5-6 đã thể hiện rất rõ những điều ấy.
Ở khổ 3 và 4 tác giả đã vẽ lên khung cảnh thiên nhiên đêm trăng thoáng đãng, lấp lánh ánh sáng với một vẻ đẹp lãng mạn và kì ảo của biển khơi qua hình ảnh buồm trăng, mây cao, biển bằng và các loại cá. Có một câu thơ rất đặc biệt: “Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long” Đó là nhà thơ tưởng tượng bóng sao lùa nước Hạ Long làm nên tiếng thở của biển đêm.
Một bức tranh khác được nhà thơ vẽ lên cảnh lao động trong khung cảnh biển đêm. khí thế sôi nổi, khẩn trương thể hiện sự trù phú của biển cả đã cho một buổi đánh bắt đầy ắp cá tôm cho ta biết thêm một điều rằng: cảnh đẹp không chỉ ở màu sắc mà cả lãng mạng còn nằm ở niềm vui phơi phới, khoẻ khoắn khi con người được làm chủ biển trời quê hương. Con thuyền vốn nhỏ bé trước biển cả bao la nay trở lên kì vĩ và mang tầm vóc vũ trụ bởi nó có gió làm bánh lái, có trăng làm cánh buồm, lướt giữa mây trời và sóng nước. Nhà thơ còn khéo léo dùng biện pháp tu từ liệt kê: cá nhụ, cá đê…để thể hiện lên hình ảnh về sự giàu đẹp của biển cả, mỗi một loài cá là một kiểu riêng thông qua các từ chỉ màu sắc: đuốc đen hồng, vàng choé, tạo cảm giác lung linh kì ảo.
Khổ 5-6 là bài hát gọi cá của những người ngư dân cũng là bài ca về lòng biết ơn sự giàu có và trù phú của biển cả. Trung tâm của bức tranh ở khổ 5 này là hình ảnh những người dân chài kéo lưới với sự gân guốc và khoẻ khoắn, hình ảnh ấy lồng lộng giữa biển khơi mênh mông. Câu cuối của khổ 6 chính là hình ảnh màu hồng của bình minh làm ấm sáng bức tranh lao động, lúc này thiên nhiên và con người hoà nhịp trong sự vận hành của vũ trụ.
Qua các khổ thơ bên trên nhà thơ đã rất thành công trong việc sáng tạo trong việc xây dựng hình ảnh bằng liên tưởng, tưởng tượng phong phú, độc đáo; có âm hưởng khoẻ khoắn, hào hùng, lạc quan. Ngoài ra còn thành công khắc hoạ lên nhiều hình ảnh đẹp tráng lệ, thể hiện sự hài hoà giữa thiên nhiên và con người lao động, bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước đất nước và cuộc sống.
Cảm nhận về khổ thơ 3, 4, 5, 6 bài Đoàn thuyền đánh cá
Nếu như trước cách mạng tháng Tám thơ Huy Cận chìm đắm vào nỗi sầu vương nhân thế thì sau cách mạng, thơ ông tràn ngập niềm yêu cuộc sống, ngợi ca cuộc đời và con người mới. Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá được tác giả sáng tác trong một lần đi thực tế tại Quảng Ninh là một tác phẩm như thế. Vẻ đẹp huy hoàng, kỳ vĩ của thiên nhiên cùng những người lao động mạnh mẽ, lạc quan tạo nên một bức tranh cuộc sống hài hoà, đẹp đẽ. Các khổ thơ 3, 4, 5, 6 là những đoạn thơ thể hiện rõ nhất bức tranh ấy.
“Thuyền ta lái gió với buồm trăngLướt giữa mây cao với biển bằng”
Những người đánh cá ra đi mang theo câu hát của niềm tin và hy vọng. Giữa biển cả sóng nước mênh mông của vũ trụ, người lao động nào có nhỏ bé mà họ trở nên phi thường, lớn lao, làm chủ chính công việc của mình. Qua cái nhìn lãng mạn của thi nhân cùng lối tưởng tượng độc đáo, từ một công việc vất vả trở nên thi vị biết bao. Thiên nhiên sát cánh cùng người lao động, gió căng buồm cùng người lái thuyền vượt sóng, buồm chở trăng vượt biển, lướt mây. Nhờ gió, trăng mà người lao động vui vầy hơn với công việc, thiên nhiên gần gũi, thân thương thật nhiều. Động từ “lướt” được đặt đầu câu cho thấy khí thế phơi phới trong hoạt động lái thuyền, vượt biển.
“Ra đậu dặm xa dò bụng biển”
Thuyền cùng người “lướt mây cao”, vượt “biển bằng” để đến nơi xa xôi của biển cả “ra đậu dặm xa”, tìm kiếm những nguồn cá tôm dồi dào. Công việc đánh cá nào có dễ dàng thuận lợi, phải cần kinh nghiệm và mưu trí của mình, người lao động mới tìm được nơi có bãi cá, luồng tôm để đánh bắt ” dò bụng bể”.
“Dàn đan thế trận lưới vây giăng”
Đánh bắt cá cũng là một cuộc chinh phục của con người trước thiên nhiên. Công việc diễn ra như một trận đánh của người lao động vậy, cần sự tập trung cao độ trong mỗi bước hành động “dàn đan thế trận” để giăng lưới bắt cá. Công việc đánh cá hiện lên vừa chân thực lại không kém phần lãng mạn qua cách khắc hoạ của Huy Cận. Kinh nghiệm bao mùa mưa nắng đánh bắt cá tôm đã nuôi dưỡng trong những người dân chài bản lĩnh can trường để vượt qua gian khó, công việc trở thành một môn nghệ thuật mà những người lao động ấy là nghệ sĩ tài ba, vô danh và dũng cảm.
“Cá nhụ, cá chim cùng cá đéCá song lấp lánh đuốc đen hồngCái đuôi em quẫy trăng vàng chóe”
Phải chăng thiên nhiên cũng thấu hiểu được sự vất vả của con người mà thương họ, bạn phát cho họ nguồn cá tôm dồi dào đến thế. Thủ pháp liệt kê được tác giả vận dụng để thể hiện sự phong phú, đa dạng của các loài cá trên biển: cá nhụ, cá chim, cá đé, cá song,….. Ta như thấy được niềm vui của người lao động khi bắt gặp luồng cá đông đến vậy. Trong màu sắc dịu dàng của ánh trăng đêm giữa biển khơi, những chú cá hiện lên thật lung linh, đẹp đẽ. Cá song “lấp lánh đuốc đen hồng” nổi bật trong làn nước của biển đêm. Nghệ thuật nhân hoá “em” như một cách gọi đầy trìu mến và thân thương của người lao động dành cho bao chú cá biển khơi. Động từ “quẫy” kết hợp với cụm danh từ “trăng vàng choé” càng làm cho khung cảnh lao động trong biển đêm thêm sinh động, nên thơ. Ánh trăng đêm rẽ nước cùng thuyền vượt biển, trăng mang ánh sáng huyền diệu xua tan tăm tối của biển đêm, sáng soi cho con người lao động. Trăng cùng cá tôm vẽ nên nét đẹp lung linh, mơ màng của biển cả.
“Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”
Nghệ thuật nhân hoá một lần nữa được tác giả vận dụng để miêu tả thiên nhiên “đêm thở”, “sao lùa”.
“Ta hát bài ca gọi cá vào,Gõ thuyền đã có nhịp trăng caoBiển cho ta cá như lòng mẹNuôi lớn đời ta tự buổi nào”
Câu hát luôn được người lao động nơi biển cá mang theo. Dẫu mệt nhọc, vất vả thì những lời ca, tiếng hát văn vang lên, xua tan bao khó khăn, đem đến cho họ nguồn năng lượng tích cực để làm việc. Câu hát mời gọi tôm cá đến với con người nghe sao mà thiết tha, ân tình đến vậy. Trăng cũng hoà mình vào làn nước mát xanh, vỗ vào mạn thuyền để gõ nhịp, góp thêm cho lời hát của con người khúc nhạc tâm tình, dạt dào mời gọi. Nhịp thơ nhẹ nhàng, lời thơ phóng khoáng ấy càng thể hiện vẻ đẹp của người lao động trong cuộc đời mới: tự do, kiêu hãnh và đầy khát khao.
Xúc cảm trào dâng mãnh liệt, thay lời bao người con biển cả, nhà thơ cất lên lời biết ơn từ tận đáy lòng dành cho mẹ biển:
“Biển cho ta cá như lòng mẹNuôi lớn đời ta tự buổi nào”
Bao nhiêu thế hệ được lớn lên, trưởng thành nơi đây là nhờ biển cả. Biển mang lại nguồn kinh tế vô cùng lớn cho người lao động để họ có thể mưu sinh, nuôi sống gia đình mình. Nếu lòng mẹ cao lớn, dạt dào nuôi nấng chăm sóc con thì biển cả cũng vĩ đại như lòng mẹ vậy, dành cho người lao động nguồn cá tôm rộng mở, nuôi dưỡng và chở che cho cuộc đời con người “Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”. Lời biết ơn cũng là lời ngợi ca biển quê hương giàu đẹp, tiếng thơ chân thành mà tha thiết yêu thương.
“Sao mờ, kéo lưới kịp trời sángTa kéo xoăn tay chùm cá nặng”
Không khắc hoạ vẻ cường tráng, mạnh bạo của người dân qua ngoại hình, màu da như Tế Hanh, nhưng Huy Cận lại thể hiện vẻ đẹp đó của họ quá hành động. Sao dần mờ, trời sắp sáng cũng là lúc mọi người thúc giục nhau kéo lưới lên. Hành động “kéo xoăn tay chùm cá nặng” khắc hoạ nên hình ảnh dân chài đầy sức sống, mạnh mẽ như bức tượng đồng, dù đã mệt mỏi sau đêm dài thức trắng làm việc, họ vẫn quyết dùng hết sức lực để kéo lưới lên. Ta như thấy được những cánh tay cuồn cuộn, rắn chắc căng mình kéo lưới, một hình ảnh khoẻ mạnh và thật rắn rỏi. “Chùm cá nặng” là thành quả xứng đáng mà còn người nhận được sau bao thời gian gắng sức, vất vả. Đó là niềm vui thoả những chờ đợi, mong mỏi mà họ đã gửi gắm vào từng câu ca, tiếng hát.
“Vẩy bạc đuôi vàng loé rạng đôngLưới xếp buồm lên đón nắng hồng”
Chùm lưới nặng được kéo lên cũng là lúc công việc hoàn thành, vừa lúc rạng đông cũng đến. Con thuyền trở về với cá tôm đầy khoang. “Vẩy bạc” “đuôi vàng” lấp lánh trong ánh bình minh của buổi sớm. Hình ảnh lung linh và đẹp đẽ ấy là đại diện cho thành quả của người dân chài, họ tự hào và trân trọng những gì mà mình nhận được, họ hạnh phúc vì những cống hiến, hy sinh của mình được nhận lại xứng đáng. Cánh buồm căng gió trở về trong niềm hứng khởi, “nắng hồng” sớm mai lên cũng là lúc mọi người chào đón một ngày mới với những niềm vui mới, những hy vọng mới.
4 khổ thơ dạt dào cảm xúc, mang cả những yêu thương, ước vọng và niềm tin của tác giả dành cho người dân chài nói riêng và dành cho quê hương, đất nước nói chung. Hồn thơ khoẻ khoắn, khoáng đạt của Huy Cận đã mang đến cho người đọc bao cảm xúc tự hào về con người và thiên nhiên Việt Nam.
Cảm nhận của em về đoạn thơ 3, 4, 5, 6 bài Đoàn thuyền đánh cá
Đoàn thuyền đánh cá được coi là khúc tráng ca ca ngợi cuộc sống mới. Tác giả Huy Cận sau chuyền đi thực tế tại vùng mỏ Quảng Ninh. Bài thơ có nhiều đặc sắc về mặt nghệ thuật. Bài thơ có hình ảnh tráng lệ về thiên nhiên và con người lao động thể hiện sự hòa giữa thiên nhiên và con người. Trong đó phải kể đến các khổ thơ đặc sắc từ khổ 3 đến khổ 6.
Niềm cảm hứng say sưa, bài ca lao động vẫn vang lên khỏe khoắn, ngợi ca cảnh đánh cá trên biển, dưới trời đầy trăng sao trong khổ 3:
Thuyền ta lái gió với buồm trăngLướt giữa mây cao với biển bằng
Giữa bức tranh trời mây lồng lộng, mênh mông biển cả, công việc đánh cá đầy cực nhọc hiện lên một cách đầy thi vị. Bằng nghệ thuật tưởng tượng lãng mạn, thiên nhiên như là những người bạn thân thiết, “gió” là người lái, “trăng” là cánh buồm làm cho công việc nhọc nhằn, vất vả trở nên thấy nhẹ nhàng và đầy chất thơ. Động từ “lướt” thể hiện độ nhanh, nhẹ của những con thuyền được lái gió và khí thế phơi phới của người dân chài. Cảnh thiên nhiên kì vĩ, lớn lao, phóng khoáng bởi con người sảng khoái, tự do, làm chủ bản thân mình. Trong mối quan hệ giao hòa, thiên nhiên càng huy hoàng, lớn lao bao nhiêu thì càng tôn vẻ đẹp con người lên bấy nhiêu.
Tầm vóc của họ vụt cao lên, sánh ngang với biển trời, vũ trụ, thực hiện công việc của mình bằng tất cả trí tuệ và năng lực:
“Ra đậu dặm xa dò bụng biểnDàn đan thế trận lưới vây giăng”
Bên cạnh cái ung dung và say sưa của những người dân làng chài, ta vẫn cảm nhận được cái vất vả của họ. Công việc thật sự là một trận đánh được diễn tả bằng rất nhiều động từ mạnh, thể hiện tư thế làm chủ thiên nhiên, tư thế sẵn sàng lao động hết mình của những con người mới. Hằng đêm, họ phải vượt qua bao nhiêu dặm biển trong cảnh trời đêm, ra đậu ngoài khơi xa mới có thể đánh bắt được nhiều cá. Không chỉ thế họ còn phải “dò bụng biển” mới có thể tìm được các bãi cá, “dàn đan thế trận” để bủa lưới bắt cá. Chính nhờ sự am hiểu sâu sắc về nghề nghiệp và có niềm cảm thông sâu sắc với những người dân chài tác giả mới có thể vẽ nên bức tranh đầy hiện thực nhưng không kém phần lãng mạn ấy.
Không chỉ tinh tế về cảm xúc thẩm mĩ mà còn phong phú về vốn sống, Huy Cận hiểu khá tường tận về công việc của những người đánh cá. Đoàn thuyền đã tìm thấy đúng bãi cá và lưới đã được buông xuống:
“Cá nhụ cá chim cùng cá đéCá song lấp lánh đuốc đen hồngCái đuôi em quẫy trăng vàng chóe”
Bằng nghệ thuật tưởng tượng lãng mạn, biển trời với bao nhiêu loài cá mang bao nhiêu màu sắc lung linh trở nên thật kì ảo dưới ánh trăng. Bằng biện pháp liệt kê và điệp từ “cá”, tác giả đã kể tên nhiều loài cá quý, thể hiện sự phong phú và đa dạng về chủng loại, bổ sung về chủng loại cá ở đoạn thơ tả đàn cá thu “dệt biển”. Hình ảnh cá song là một nét vẽ tài hoa, vẩy cá đen, hồng lấp lánh trên biển nước lấp loáng ánh trăng như những ngọn đuốc giữa biển đêm thăm thẳm. Cái “quẫy đuôi” làm cho bức tranh thật sinh động cùng với nghệ thuật phối sắc tài tình làm cho đoạn thơ đẹp như một bức tranh sơn mài vô cùng rực rỡ. Thiên nhiên được nhân hóa “thở”, cùng với cách gọi cá là “em” thể hiện tình yêu quê hương đất nước và tình yêu biển sâu nặng của tác giả.
Tiếng hát của con người lao động lại cất cao phóng khoáng, bay bổng, chan chứa niềm tin yêu cuộc sống:
“Ta hát bài ca gọi cá vào,Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.”
Chất lãng mạn bao trùm cả bức tranh lao động, cả đoàn thuyền đánh cá. Người dân chài cất tiếng hát tả lại công việc của mình với niềm yêu đời mãnh liệt, biến khó khăn thành niềm vui. Lời ca gọi cá vào đã làm tăng thêm phần thơ mộng của bức tranh sơn mài. Hình ảnh “gõ thuyền đã có nhịp trăng cao” là một hình ảnh vô cùng sáng tạo và giàu chất thơ, trăng in bóng xuống nước, sóng vỗ vào mạn thuyền “gõ nhịp” gọi cá vào. Những vần điệu độc đáo được dệt nên bằng cái nhìn tươi tắn, lạc quan của tác giả đối với biển và con người thể hiện tình yêu lao động, khát khao chinh phục thiên nhiên và ước mơ làm giàu, làm đẹp cho đời của những con người lao động mới.
Cảm xúc dâng trào, lời ca ngợi biển vang lên đầy tha thiết:
“Biển cho ta cá như lòng mẹNuôi lớn đời ta tự buổi nào.”
Biển không chỉ đẹp mà biển còn rất giàu, nguồn tài nguyên biển phong phú, đa dạng mang lại hạnh phúc cho con người. Hình ảnh so sánh “như lòng mẹ” quen thuộc là lời ca ngợi biển cả, thể hiện niềm tự hào của những người dân làng chài đối với biển quê hương và ví biển nuôi sống con người như một người mẹ chăm sóc, nuông nấng bầy con. Giọng thơ tự nhiên, chân thành, ấm áp, chứa chan tình yêu thương và mang âm hưởng ca dao.
Đêm sắp tàn, trời sắp sáng, những ngư dân yêu biển, yêu quê hương ra sức lao động:
“Sao mờ, kéo lưới kịp trời sángTa kéo xoăn tay chùm cá nặng”
Với nhịp thơ dồn dập, câu thơ đã diễn tả chân thực thái độ và nhịp lao động đầy khẩn trương của đoàn thuyền đánh cá. Hình ảnh “kéo xoăn tay” như tạc nên một bức tượng ngư dân đầy sức sống, dáng người nghiêng mình trụ vững, dồn tất cả sức mạnh vào đôi cánh tay cuồn cuộn kéo lưới căng, khỏe vô cùng đẹp đẽ. Hình ảnh “chùm cá nặng” gợi tả thành quả lao động bội thu, cho thấy lưới có rất nhiều cá, thỏa mong mỏi của ngư dân. Đồng thời hình ảnh ấy còn ẩn chứa bao niềm vui tươi, sung sướng của người ngư dân trước thành quả mà họ đã tốn bao công sức mới thu hoạch được và niềm say mê cống hiến, đóng góp những thành quả lao động của mình cho đất nước.
Lưới cá nặng được kéo lên, những tia nắng sớn chiếu trên khoang cá đầy làm lấp lánh đủ các màu sắc:
“Vảy bạc đuôi vàng lóe rạng đôngLưới xếp buồm lên đón nắng hồng”
Vẩy đuôi của những chú cá lấp lánh ánh bình minh rực rỡ. Những từ “bạc, vàng” tạo cho câu thơ mang màu sắc lấp lánh, một mặt diễn tả sự giàu có của biển cả, đồng thời cũng cho thấy thái độ tôn trọng của những người đánh cá với những thành quả lao động của mình. Đồng thời đó còn là niềm biết ơn của họ trước sự hào phóng, ưu ái của biển cả đối với con người. “Đón nắng hồng” biểu hiện trạng thái sảng khoái, phấn chấn của họ khi công việc thành công mỹ mãn. “Nắng hồng” không những khắc họa được vẻ đẹp tươi sáng của bầu trời mà còn thể hiện được lòng yêu đời, yêu thiên nhiên. Màu hồng của một ngày mới, một cuộc đời mới đang chào đón mọi người.
Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” là một khúc ca vừa hào hứng, vừa phơi phới và khỏe khoắn, mạnh mẽ, kết hợp với sự vận động tuần hoàn của thiên nhiên vũ trụ khiến bài thơ bước khởi đầu trong cảm hứng mới về thiên nhiên đất nước và niềm tin ở cuộc sống mới đang sôi động. Bài thơ khắc họa nhiều hình ảnh đẹp tráng lệ, thể hiện sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động, bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước đất nước và cuộc sống.
Cảm nhận khổ 3, 4, 5, 6 bài thơ Đoàn thuyền đánh cá
Huy Cận là một trong số những gương mặt tiêu biểu của nền thơ ca Việt Nam hiện đại. Trước Cách mạng thơ Huy Cận thường giàu chất triết lí và ngập tràn nỗi sầu nhân thế. Nhưng từ khi Cách mạng tháng Tám thành công thì thơ ông là bài ca dào dạt niềm vui về cuộc đời, là bài thơ mến yêu thiên nhiên, con người và cuộc sống. Ra đời năm 1958, trong chuyến đi thực tế của nhà thơ ra vùng mỏ Quảng Ninh, “Đoàn thuyền đánh cá” là một tác phẩm mang cảm xúc như thế. Bài thơ miêu tả một chuyến đi khơi của đoàn thuyền đánh cá; là một khúc ca lao động tập thể, khúc ca về vẻ đẹp của thiên nhiên; là niềm vui, niềm ngưỡng mộ của tác giả trước con người và cuộc sống mới. Để lại nhiều ấn tượng nhất trong lòng người đọc là vẻ đẹp của biển cả, của đoàn thuyền và con người được thể hiện. Mở đoạn đoạn thơ là hình ảnh đoàn thuyền lướt nhanh giữa trời cao biển rộng có cái lâng lâng, sảng khoái lạ thường:
Thuyền ta lái gió với buồm trăngLướt giữa mây cao với biển bằng.Ra đậu dặm xa dò bụng biểnDàn đan thế trận lưới vây giăng.
Con thuyền đánh cá vốn nhỏ bé trước biển trời bao la, đã trở thành con thuyền kì vĩ, lớn lao mang tầm vóc vũ trụ. Thuyền có gió làm lái, có trăng làm buồm, lướt giữa mây cao và biển bằng, giữa mây trời và sóng nước với tất cả sức mạnh chinh phục biển cả, chinh phục thiên nhiên. Hình ảnh này thể hiện rất rõ sự thay đổi trong cảm hứng nghệ thuật của Huy Cận trước và sau cách mạng (có thể bàn thêm). Chủ nhân con thuyền – những người lao động cũng trở nên lồng lộng giữa biển trời trong tư thế, tầm vóc làm chủ cuộc đời. Con người đã chủ động, mạnh mẽ hòa nhập với kích thước rộng lớn của thiên nhiên, vũ trụ. Không chỉ vậy, họ còn nổi bật ở vị trí trung tâm: ra tận khơi xa dò bụng biển, tìm luồng cá, dàn đan thế trận, bủa lưới vây giăng. Chất lãng mạn bao trùm cả bức tranh lao động biến công việc nặng nhọc trên biển thành một cuộc chiến đấu đầy hăm hở, với khí thế đua tranh. Nếu như ở đoạn đầu, thiên nhiên đã chìm vào trạng thái nghỉ ngơi, thư giãn “mặt trời xuống biển”, “sóng đã cài then”, “đêm sập cửa” thì ở đây, con người đã đánh thức thiên nhiên, khiến thiên nhiên dường như bừng tỉnh, như cùng hòa vào niềm vui trong lao động. Có thể nói, lòng tin yêu thiên nhiên, con người và cảm hứng lãng mạn bay bổng đã giúp nhà thơ xây dựng được một hình ảnh thơ tuyệt đẹp, vừa hoành tráng, lại vừa thơ mộng.
Bức tranh lao động được điểm tô bằng vẻ đẹp của thiên nhiên. Cái nhìn của nhà thơ đối với biển và cá cũng có những sáng tạo bất ngờ, độc đáo:
Cá nhụ cá chim cùng cá đéCá song lấp lánh đuốc đen hồng.Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe
Thủ pháp liệt kê kết hợp với sự phối sắc tài tình qua việc sử dụng các tính từ chỉ màu sắc “đen hồng”, “vàng chóe”… đã tạo nên một bức tranh sơn mài nhiều màu sắc, ánh sáng, lung linh huyền ảo như trong câu chuyện cổ tích nói về xứ sở thần tiên. Mỗi loài cá là một kiểu dáng, một màu sắc: “Cá nhụ cá chim cùng cá đé/Cá song lấp lánh đuốc đen hồng” làm nên sự giàu đẹp của biển cả quê hương. Như có một hội rước đuốc trong lòng biển đêm sâu thẳm. Mỗi khi: “Cái đuôi em quẫy”, trăng như vàng hơn, rực rỡ hơn, biển cả như sống động hẳn lên. Người xưa thường nói: “Thi trung hữu họa” – nghĩa là trong thơ có hình có ảnh. Quả đúng như thế, mỗi loài cá ở đây là bức kí họa thần tình. Chúng đâu chỉ là sản phẩm vô tri được đánh bắt bởi bàn tay con người. Với họ – những người ngư dân này – cá là bạn, là “em”, là niềm cảm hứng cho con người trong lao động, và cũng chính là đối tượng thẩm mĩ cho thi ca.
Cảnh đẹp không chỉ ở màu sắc, ánh sáng, mà còn ở âm thanh. Nhìn bầy cá bơi lội, nhà thơ lắng nghe tiếng sóng vỗ rì rầm:
“Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”
Bằng nghệ thuật ẩn dụ kết hợp nhân hóa, biển cả như một sinh thể sống động. Tiếng sóng vỗ dạt dào dâng cao hạ thấp là nhịp thở trong đêm của biển. Thế nhưng nhà thơ lại viết “Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”. Thật ra, là sóng biển đu đưa rì rào va đập vào mạn thuyền. Trăng, sao phản chiếu ánh sáng xuống nước biển, mỗi khi sóng vỗ nhịp tưởng như có bàn tay của sao trời đang “lùa nước Hạ Long”. Đó là sự độc đáo, mới lạ trong sáng tạo nghệ thuật. Có thể nói, bằng tâm hồn hết sức tinh tế, tác giả đã cảm nhận được hơi thở của thiên nhiên, vũ trụ. Chính không khí say sưa xây dựng đất nước của những năm đầu khôi phục và phát triển kinh tế là cơ sở hiện thực của những hình ảnh lãng mạn trên. Bởi thế, bài thơ như một khúc tráng ca mà Huy Cận sáng tác để ca ngợi những con người lao động mới hay chính những con người lao động tự cất lên, tự viết lời cho khúc ca lao động của mình:
“Ta hát bài ca gọi cá vàoGõ thuyền đã có nhịp trăng cao”
Bài hát căng buồm đưa đoàn thuyền ra khơi, bài hát lại vang lên trong công việc, biến lao động cực nhọc thành niềm vui phơi phới, niềm vui lao động, niềm vui được hòa nhập gắn bó thân thiết với thiên nhiên. Lời ca gọi cá vào lưới nâng cao thêm chất thơ mộng của bức tranh. Người dân chài gõ thuyền xua cá vào lưới, nhưng đây không phải là con người mà là ánh trăng: trăng in xuống dòng nước, sóng vỗ như gõ nhịp vào mạn thuyền xua cá. Hiện thực được trí tưởng tượng sáng tạo thành hình ảnh lãng mạn, giàu chất thơ. Cái nhìn của nhà thơ đối với biển cả và con người là cái nhìn tươi tắn, lạc quan, ông như hòa nhập vào công việc, vào con người, vào biển cả.
Từ đó, cảm xúc dâng trào, không thể không cất lên tiếng hát, bài ca về lòng biết ơn mẹ biển giàu có và nhân hậu:
“Biển cho ta cá như lòng mẹNuôi lớn đời ta tự buổi nào”
Biển ấm áp như người mẹ hiền chở che, nuôi nấng con người lớn lên, bao bọc con người với một tình cảm trìu mến, thân thương. Biển là nguồn sống, gắn bó thân thiết, cho ta tất cả những gì của cuộc đời như người mẹ “nuôi lớn đời ta tự buổi nào”. Câu thơ như một sự cảm nhận thấm thía của những người dân chài đối với biển khơi. Đến một lúc nào đó, họ chợt nhận ra biển đã gắn bó với mình từ bao đời, bao thế hệ, thật quý giá và thân yêu biết chừng nào!
Bài văn cảm nhận của em về khổ thơ 3, 4, 5, 6 bài Đoàn thuyền đánh cá
“Có nơi đâu đẹp tuyệt vờiNhư sông như núi như người Việt Nam”
Hai câu thơ trên đã ca ngợi về sự giàu có, trù phú của cảnh thiên nhiên Việt Nam. Thiên nhiên ấy đem lại nguồn sống dồi dào cho con người. Và bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” cũng đã diễn tả rất cụ thể sự giàu có ấy. Bài thơ khắc họa sinh động cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi, với không khí lao động hăng say vui vẻ. Ở khổ thơ thứ ba, bốn, năm, sáu, tác giả miêu tả rất rõ về hình ảnh những người ngư dân đánh cá trên biển trong cảnh thiên nhiên bao la, rộng lớn.
Nếu như ở hai khổ thơ đầu, nhà thơ Huy Cận làm nổi bật hình ảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi thì đến khổ thơ thứ ba, cảnh đoàn thuyền lướt nhanh trên mặt biển được hiện ra:
“Thuyền ta lái gió với buồm trăngLướt giữa mây cao với biển bằngRa đậu dặm xa dò bụng biển,Dàn đan thế trận lưới vây quanh”
Đoàn thuyền đánh cá ra khơi không phải bằng sức mạnh của con người mà bằng sức gió. Gió chính là người cầm lái đưa con thuyền giang cánh buồm tiến lên phía trước. Lúc này đây, con người như làm chủ, điều khiển thiên nhiên. Qua cái nhìn của nhà thơ, con thuyền vốn nhỏ bé lại hiện lên thật hùng vĩ, sánh ngang tầm với vũ trụ. Hình ảnh con thuyền và thiên nhiên như hòa quyện với nhau, gắn bó gần gũi, thân thiết hơn. Ở hai câu thơ tiếp theo, nhà thơ đã miêu tả cảnh đánh bắt của người dân thật cụ thể. Vào lúc này, con thuyền đã ở tận khơi xa, nơi biển khơi mênh mông, rộng lớn. Ở đó, người ngư dân sẵn sàng bắt tay vào công việc. Nhưng họ không đánh bắt luôn mà “dò bụng biển” trước tiên. Hành động này nhằm tìm kiếm tìm những luồng cá mới dưới biển sâu. Từ đó, ta thấy rằng người ngư dân đã có sự tính toán rất kĩ càng khi làm việc. Công việc tiếp theo của việc đánh bắt cá đó là “dàn đan thế trận lưới vây quanh”. Huy Cận đã ẩn dụ cuộc đánh bắt như một thế trận chiến đấu để nhấn mạnh vào sự tỉ mỉ, cẩn thận của người dân trong công việc.
Đến khổ thơ thứ 4, tác giả đã mở ra trước mắt người đọc sự phong phú của các loài cá vùng biển:
“Cá nhụ cá chim cùng cá đéCá song lấp lánh đuốc đen hồngCái đuôi em quẫy trăng vàng chóeĐêm thở: sao lùa nước Hạ Long”.
Bằng việc sử dụng biện pháp tu từ liệt kê, tác giả đã nhắc đến một loạt các loài cá của vùng biển Việt Nam. Đó là cá chim, cá nhụ, cá đé,… Đây đều là những loài cá quý, đem lại giá trị kinh tế cao. Từ đó, thi nhân đang ngầm ca ngợi biển cả quê hương thật giàu có, trù phú, mang đến cho con người nguồn của cải vô tận. Không chỉ giàu có mà bầu trời đêm trên biển cũng rất đẹp, đẹp một cách thơ mộng, tình tứ. Khi màn đêm buông xuống, trời khuya dần và trăng đã lên cao, ta thấy được những ngôi sao sáng lấp lánh trên nền trời đen bàng bạc, ánh trăng mờ ảo, tiếng nước gõ mạn thuyền đều đều như đưa con người vào vùng đất kì bí, tuyệt đẹp. Vẻ đẹp đó cùng với màu sắc của muôn loài cá hòa quyện vào nhau tạo nên một bức tranh lung linh, đầy lãng mạn.
Trước biển khơi bao la, người dân chài cất vang lời hát gọi cá vào lưới:
“Ta hát bài ca gọi cá vào,Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.Biển cho ta cá như lòng mẹNuôi lớn đời ta tự buổi nào.”
Lời hát của người dân được cất cao và vang xa trên biển khơi mênh mông. Câu hát ấy thể hiện niềm vui, niềm phấn khởi của người lao động khi họ được làm chủ thiên nhiên. Những người dân vừa cất cao câu hát vừa gõ mạn thuyền để xua cá vào lưới. Với họ, biển cả giống như người mẹ luôn dang rộng vòng tay yêu thương, cho con người nguồn hải sản vô tận, giúp con người có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Vì vậy, câu hát ở khổ thơ này vừa để gọi cá vào lưới, vừa thể hiện niềm vui khi được của những người dân chài và hơn hết là khúc hát ca ngợi mẹ biển cả vĩ đại..
Ở khổ thơ thứ sáu, tác giả đã làm nổi bật cảnh đánh bắt cá của người ngư dân:
“Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,Ta kéo xoăn tay chùm cá nặngVẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông,Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng”.
Người ngư dân cần đánh bắt cá sao cho kịp trời sáng. Hình ảnh “ta kéo xoăn tay chùm cá nặng” đã diễn tả được sự khỏe khoắn, hăng say lao động của con người. Họ tích cực giăng lưới để thu về những mẻ cá to chất đầy khoang. Sau khi đánh bắt xong, con người quay trở về nhà. Hai từ “nắng hồng” vừa tả thực cảnh bình minh lên trên mặt biển, vừa ẩn dụ cho cuộc sống tràn đầy hi vọng.
Với giọng điệu thơ khỏe khoắn, yêu đời nhà thơ Huy Cận đã làm nổi bật cảnh người ngư dân đánh bắt cá nơi biển khơi bao la. Qua đây, người đọc có thể cảm nhận được vẻ đẹp của người lao động trong công cuộc dựng xây cuộc sống mới.