Phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá – Huy Cận thú vị nhất
Phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá – Huy Cận, nét hấp dẫn nhất
1. Dàn ý phân tích đoàn thuyền đánh cá
Mở bài:
Giới thiệu tác giả Huy Cận và tác phẩm Đoàn thuyền đánh cá
Thân bài: Phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá
- Cảnh đoàn thuyền ra khơi và không khí của dân chài
Cảnh đoàn thủy thủ ra khơi lúc chiều tà. Cảnh con tàu ra khơi trong đêm thật gần gũi, thân thương. Mọi người ra khơi với tinh thần phấn khởi, lạc quan và hy vọng mới, hy vọng ngày mai sẽ đầy cá trong khoang.
- Cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển:
Khung cảnh không gian hùng vĩ, đồ sộ, bao la nhưng đoàn thuyền đánh cá cũng không hề kém cạnh, thật hùng vĩ, sánh vai cùng thiên nhiên. Câu cá giống như một trận chiến khốc liệt không khác gì những trận đấu súng. Đoàn thuyền giữa biển khơi tuy đồ sộ nhưng oai hùng, tráng lệ. Tâm huyết và niềm đam mê đánh bắt của ngư dân.
- Quang cảnh đoàn tàu về bờ
Nhịp điệu và sự đồng bộ của hạm đội
Những ca khúc như một lời khao khát và nói lên niềm vui chiến thắng sau bao đêm khổ luyện
Cảnh cabin đầy cá. Khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ nên khung hình lấy người và thuyền trở thành tâm điểm của bức tranh.
Kết luận:
Một lần nữa khen ngợi lối viết tài tình của nhà thơ Huy Cận. Viết nhận xét của bạn về Thuyền đánh cá.
2. Phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá – Huy Cận
2.1 Mẫu số 1
Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận – một tác phẩm đáng chú ý nhất
Mặt trời xuống biến như hòn lửaSóng đã cài then, đập sập cửaĐoàn thuyền đánh cá lại ra khơiCâu hát căng buồm cùng gió khơi.
Bài hát của gió buồm dọc theo bờ biển. Thuyền đánh cá ra khơi lúc hoàng hôn. Bên này mặt trời như một quả bóng đỏ rực đang chìm dần xuống đại dương bao la. Màn đêm buông xuống, ngày tàn. Đó cũng là lúc những ngư dân bắt tay vào công việc quen thuộc của họ: đi đánh cá. Mặt biển đêm se lạnh và ấm áp câu ca trong trẻo, ngân vang thể hiện niềm vui sướng tột cùng của những người lao động được giải phóng: câu ca căng buồm cùng gió biển. Đó là cách nói độc đáo, sáng tạo của tác giả, khiến ta liên tưởng đến tiếng hát hòa nhịp với cơn gió mạnh, thổi căng cánh buồm đưa thuyền, đẩy thuyền ra xa khỏi mặt nước. Cánh buồm căng gió tượng trưng cho khí thế dựng nước. Bài hát tôn vinh sự giàu có và hào phóng của đại dương và vẻ đẹp kỳ diệu của nó vào ban đêm. Phong cách lãng mạn của nhà thơ đã vẽ nên một khung cảnh vừa thực vừa ảo:
Hát rằng: Cá bạc biển Đông lặngCá thu biển Đông như đoàn thoiĐêm ngày dệt biên muôn luồn sángĐến dệt lưới ta, đàn cá ơi!
Vẻ đẹp kì diệu của biển đã xoa dịu những thử thách, gian khổ, đem lại niềm vui, hạnh phúc cho con người đấu tranh với thiên nhiên, làm chủ cuộc đời. Cảnh đánh cá trong đêm được nhà thơ Huy Cận quan sát tỉ mỉ, miêu tả rõ nét với cảm hứng trữ tình mạnh mẽ. Tác giả như hòa mình vào thiên nhiên, vào công việc và vào con người:
Thuyền ta lái gió với buồm trăngLướt mữa mây cao với biển bằng,Ra đậu dặm xa dò bụng biển,Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
Đan lưới liền mạch. Hình ảnh lái gió, lái trăng, mây cao, biển phẳng mang phong cách thơ cổ điển nhưng vẫn rất mới mẻ, hiện thực. Một chuyến đi câu cũng giống như nhiều cuộc đấu súng. Cũng khám phá ngư trường; Họ còn đan trận để giăng lưới bắt cá bạc, để sáng mai trở về bờ, con thuyền nào cũng đầy ắp trái cây sau một đêm lao động vất vả. Từ bao đời nay, ngư dân gắn bó mật thiết với biển, họ và biển không thể tách rời. Họ thuộc biển như lòng bàn tay. Có bao nhiêu loài cá mà tất cả đều biết tên, hình dạng và tập tính của chúng:
Cá nhụ cá chim cùng cá đé,Cá song lấp lánh đuốc đen hồngCá đuôi em quẫy trăng vầng chóe.Đêm thở: Sao lùa nước Hạ Long.
Đuôi cá của tôi khuấy động mặt trăng. Tiếng thở đêm: Những vì sao làm sống động mặt nước Hạ Long. Trên mặt biển đêm, ánh trăng soi tỏ ánh bạc lung linh, cá vẫy đuôi, sóng trăng vàng. Tiếng gọi đàn cá cứ vang lên, lúc nồng nhiệt, lúc chân thành. Vầng trăng như cùng thức với người đánh cá, soi sáng cho người đánh cá làm ăn thuận lợi, trăng cùng sóng vỗ mạn thuyền như hòa nhịp cùng câu hát. Thiên nhiên và con người hài hòa. Bóng tối tan đi, ngày đến gần, nhịp điệu công việc càng sôi nổi, khẩn trương:
Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng.Vảy bạc đuôi vàng lóe rạng đông,Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.
Lưới giăng buồm đón nắng hồng. Công việc khó khăn của người nông dân cuối cùng đã được đền đáp. Bóng người ngư dân dang rộng hai chân, khom người, dồn hết sức lực vào hai cánh tay đang lăn để mang lên những mẻ cá nặng trĩu. Bóng họ in trên nền trời hồng rực của buổi bình minh. Những tia nắng vàng của buổi sáng chiếu xuống bể cá lấp lánh ánh bạc, đuôi vàng và màu sắc phong phú của những chú cá cũng làm cho khung cảnh bình minh rực rỡ hơn. Nhịp câu thơ cuối chậm rãi, gợi cảm giác bình yên mà tươi vui, thể hiện tâm trạng thoải mái của người đánh cá trước kết quả trang nghiêm của một chuyến ra khơi. Khổ thơ cuối tả đoàn thuyền đánh cá trở về:
Câu hát căng buồm cùng với gió khơi,Đoàn thuyên chạy đua cùng mặt trời.Mặt trời đội biển nhô màu mới,Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
Đôi mắt của cá đầy hơi thở. Vẫn là bài ca vang dội của một ngư phủ dày dạn kinh nghiệm vươn lên làm chủ cuộc đời. Tiếng hát trong gió, căng buồm đưa con thuyền ra khơi đêm trước, nay anh đã về với con thuyền đầy cá. Hình ảnh hạm đội chạy đua với mặt trời rất chân thực nhưng cũng rất hào hùng. Điều này phản ánh tập quán lâu đời của ngư dân là đưa cá vào bờ trước khi mặt trời mọc, đồng thời cũng cho thấy khí thế chóng mặt của họ trong công cuộc xây dựng đất nước sau ngày giải phóng. Hòa cùng niềm vui của cả nước, nhà thơ chắp cánh cho trí tưởng tượng của mình. Thuyền chạy qua biển. Mặt trời lên màu mới với ánh hào quang rực rỡ và phản chiếu trong mắt của hàng ngàn con cá khiến nhà thơ liên tưởng đến hàng ngàn mặt trời bé nhỏ đang đua nhau tỏa ra niềm vui. Ở đây, hình ảnh biển tràn ngập sắc màu tươi vui của sức sống và ngập tràn hình khối, đường nét của cảnh vật và con người. Đoàn Thuyền Đánh Cá là một bản trường ca hào hùng và xúc động. Nhà thơ ca ngợi sự bao la của biển cả – nguồn tài nguyên vô tận của đất nước, ca ngợi những con người cần cù, chăm chỉ ngày đêm tạo nguồn sống cho hàng triệu người Việt Nam. Cảm xúc trữ tình và nghệ thuật điêu luyện của Huy Cận làm say lòng người đọc. Nửa thế kỷ đã trôi qua nhưng bài thơ vẫn giữ nguyên giá trị, vẫn là tác phẩm nghệ thuật hoàn hảo ca ngợi hình ảnh người lao động. Dù thế nào, bài thơ cũng giúp ta hiểu được chân dung tinh thần mới của Huy Cận sau bao thăng trầm của lịch sử đất nước và dân tộc – một Huy Cận trữ tình cách mạng.
2.2 Mẫu số 2
Huyền là nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca hiện đại Việt Nam – một hồn thơ dạt dào cảm hứng lãng mạn về thiên nhiên đất nước, con người thời đại mới. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” được Huy Cận sáng tác năm 1958, khi miền Bắc được giải phóng, bước vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đoạn thơ là sự miêu tả chân thực của thiên nhiên trên hình ảnh người lao động và đoàn thuyền ra khơi đánh cá lúc hoàng hôn, cảnh ngư dân ra khơi đánh cá, cảnh đánh cá lúc mặt trời mọc. Đề tài “Người lao động” từ lâu đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận của các thi nhân, cũng như Huy Cận, ông đã chọn đề tài này để viết về những người dân chài của vùng biển Hạ Long xinh đẹp:
Mặt trời xuống biển như hòn lửaSóng đã cài then đêm sập cửaĐoàn thuyền đánh cá lại ra khơiCâu hát căng buồm cùng gió khơi.
Buồm hát gió dọc bờ biển. Câu thơ mở đầu diễn tả hình ảnh mặt trời đỏ au dần lặn xuống đáy đại dương để ẩn mình, để lại mặt biển và chân trời kia một màu tím mộng mơ của hoàng hôn. Nghệ thuật so sánh “Mặt trời như hòn lửa” gợi cảnh mặt trời lúc hoàng hôn trên biển rực rỡ sắc màu và vẻ đẹp lộng lẫy. Ngay lập tức, màu sắc bao trùm được thay thế bằng màu sắc kỳ diệu của màn đêm. Với trí tưởng tượng phong phú và nghệ thuật giấu sóng như quán bar, đêm là cửa. Vũ trụ bao la vô tận giống như ngôi nhà rơi vào trạng thái nghỉ ngơi, tĩnh lặng và đêm kia như một phép thử lòng can đảm của con người. Tuy nhiên ở hình ảnh này ta lại thấy cảnh “Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi”. Hình ảnh ẩn dụ “Đoàn thuyền đánh cá” chỉ ngư dân bắt đầu một ngày làm việc mới. Từ “lại” chỉ sự lặp lại liên tục và đã trở thành thói quen ăn sâu vào tiềm thức của nhân viên. Đó là tinh thần lao động hăng say quên mệt mỏi, quên thời gian, quên mình để mang lại miếng cơm manh áo cho hàng triệu người dân Việt Nam và góp phần không nhỏ vào công cuộc xây dựng đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Trong đêm tối, mặt biển bỗng trở nên sống động với tiếng hò reo vang dội của mọi người. Tiếng hát hòa cùng làn gió biển mát rượi thổi những cánh buồm giúp con thuyền băng băng vươn khơi.Phong cách hào sảng Bài ca Cánh Buồm tác giả nghe nói về sức mạnh của người lao động. Bài hát hòa với gió mở có nghĩa là sự hòa hợp giữa thiên nhiên và con người. Thiên nhiên góp phần giúp con người hoàn thành công việc của mình. Bài hát thể hiện tinh thần lạc quan, yêu đời, dù công việc có khó khăn đến đâu, vui vẻ trong công việc, tinh thần luôn ở mức cao nhất với buổi chèo thuyền trong niềm tin vững chắc về thành công tràn đầy của Song Ngư.
Hát rằng: cá bạc biển Đông lặngCá thu biển Đông như đoàn thoiĐêm ngày dệt biển muôn luồng sángĐến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!
Trong câu hát của ngư dân có tên các loài cá: cá bạc, cá thu… Họ rành biển đến nỗi biết tên các loài cá. Phép tu từ so sánh “Cá thu như con thoi” vừa gợi hình ảnh sinh động, vừa ngợi ca tài nguyên thiên nhiên phong phú của vùng biển Quảng Ninh. Bằng trí tưởng tượng độc đáo kết hợp với ngòi bút lãng mạn và hiện thực, con mắt của nhà thơ như nhìn đàn cá thu như những con thoi dệt nên những tấm vải muôn màu. “Hãy dệt lưới của tôi, đoàn đánh cá!” Câu thơ như một lời mời cá vào lưới. Tiếng hát của người đánh cá không chỉ thổi căng buồm căng gió mà còn thể hiện tinh thần lạc quan, yêu đời, niềm tin mãnh liệt vào một buổi tối đầy cá. Bài ca dao này không chỉ ca ngợi vùng biển nước ta giàu tài nguyên mà còn có ích cho việc đánh bắt hải sản. Nó đã trở thành một bài hát làm việc. Bằng trí tưởng tượng phong phú và ngòi bút lãng mạn bay bổng của nhà thơ, ông đã dẫn dắt người đọc đến một hình ảnh kì dị:
Thuyền ta lái gió với buồm trăngLướt giữa mây cao với biển bằngRa đậu dặm xa dò bụng biểmDan đan thế trận lưới vây giăng.
Dan đan lưới ngồi. Đoàn thuyền đánh cá ra khơi với ngọn gió biến bánh lái vầng trăng khuyết trên bầu trời thành cánh buồm. Gió và trăng đã trở thành hai yếu tố không thể tách rời để giúp các cần thủ ra khơi thành công. Sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người. Trong con mắt của nhà thơ, đoàn thuyền đánh cá như một con thuyền thơ giăng lưới nhẹ trên biển đầy trăng sao. Và giờ đây đoàn thuyền cùng ngư dân ra khơi, ngư dân thời đại mới đã thực sự làm chủ biển cả, làm chủ cuộc sống của mình, được trang bị những phương tiện tiên tiến, hiện đại nhất lúc bấy giờ để đánh bắt được nhiều cá. , phục vụ đổi mới. Với trí tưởng tượng kết hợp với lối nói cường điệu, nó gợi lên trước mắt người đọc hình ảnh một đoàn tàu ra khơi đánh cá. Những con tàu to lớn, tư thế hùng dũng, kiêu hãnh như chiến hạm, cùng người dân giăng lưới vây, chuẩn bị bước vào cuộc chiến khốc liệt. Nhà thơ đã nâng tầm vóc con người lên sánh ngang với biển cả vũ trụ. Bao đời nay, ngư dân gắn bó với biển, thuộc biển như lòng bàn tay. Nhiều loài cá có tên, hình dạng và thói quen của chúng:
Cá nhụ cá chim cùng cá đéCá song lấp lánh đuốc đen hồngCá đuôi em quẫy trăng vàng chóa,Đêm thở: Sao lùa nước Hạ Long.
Tiếng thở đêm: Những vì sao làm sống động mặt nước Hạ Long. Trên mặt biển đêm, ánh trăng lung linh bàng bạc, đàn cá vẫy đuôi, sóng trông như vầng trăng vàng. Điệu “gọi cá” cứ vang mãi, lúc nào cũng hừng hực khí thế. Trăng cùng thức với người dân chài, trăng và sóng nhảy nhót bên mạn thuyền như “nhập nhịp” hòa cùng câu hát. Trăng soi cho người thu trọn. Bản chất con người thực sự rất hài hòa. Sao đen kéo lưới kịp nắng mai
Sao mờ kéo lưới kịp trời sángTa kéo xoăn tay chùm cá nặngVảy bạc đuôi vàng lóe rạng đôngLưới xếp buồm lên đón nắng hồng.
Lưới giăng giăng đón nắng hồng. Công sức của ngư dân đã được đền đáp. Dáng người ngư dân với đôi chân thon dài, dồn hết sức lực vào đôi tay cuộn tròn để kéo lưới là kết quả của một đêm dài làm việc. Bóng của họ nổi bật trên nền trời bình minh trống rỗng. Những tia nắng vàng đầu tiên chiếu xuống thủy cung đầy “vảy bạc, đuôi vàng” và màu sắc phong phú của nhiều loài cá cũng làm khung cảnh bình minh rực rỡ hơn. Nhịp điệu câu cuối của khổ thơ trên chậm rãi, gợi cảm giác bình yên khó tả nhưng vẫn rất đỗi vui tươi, thể hiện tâm trạng của ngư dân trước kết quả rất tốt đẹp. Bài hát căng buồm cùng gió
Câu hát căng buồm với gió khơiĐoàn thuyền chạy đua cùng mặt trờiMặt trời đội biển nhô màu mớiMắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
Đôi mắt của cá đầy hơi thở. Với phong cách khoa trương, nhà thơ lại tưởng tượng ra tiếng hát của người đánh cá, gió thổi mạnh vào cánh buồm, khiến con thuyền cập bến trong vài phút. Dường như thiên nhiên và con người có sự kết hợp nhuần nhuyễn, hài hòa. Bài ca dao còn thể hiện tinh thần lạc quan, yêu đời, vui mừng trước thành quả lao động vất vả trên biển.Câu thơ xuất hiện ở khổ thơ đầu nay được lặp lại ở khổ thơ cuối để tạo nên kết bài tương ứng. Phong cách thơ và trí tưởng tượng của nhà thơ đã hình dung ra trước mắt mình một khung cảnh tươi đẹp và rực rỡ. Biển cả bao la trở thành trường đua với hai đối thủ là con người và mặt trời. Và chắc chắn con người sẽ chiến thắng vì đã từng đến được vùng biển có khoang đầy cá. Đặt con người trước thiên nhiên, nhà thơ khẳng định tầm vóc của con người có thể so sánh với thiên nhiên hùng vĩ. Bên cạnh niềm vui lớn lao của người dân chài, nhà thơ đã chắp cánh cho trí tưởng tượng của mình. Đoàn thuyền phi nước đại trên biển, “Mặt trời biển dậy màu mới” hồng tinh khiết và rạng rỡ, mặt trời phản chiếu qua muôn vàn mắt cá trên thuyền, như hàng ngàn hàng vạn mặt trời bé nhỏ tỏa sáng tươi vui. . Ở đây, hình ảnh biển tràn ngập màu sắc rực rỡ và tràn đầy sức sống trong từng đường nét, hình dáng của cảnh và người. Đoạn thơ đã khắc họa hình ảnh những người dân chài tuy cực nhọc, với công việc vô cùng gian khổ nhưng họ vẫn rất lạc quan, yêu đời và góp sức mình vào sự nghiệp chấn hưng đất nước. . Cảnh đẹp của quê hương với nguồn tài nguyên phong phú của đất nước. Tình yêu thiên nhiên, yêu con người, yêu vẻ đẹp lao động của tác giả đã thể hiện khí thế sôi nổi, hào hùng của đất nước ta khi miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
3. Mọi người cũng hỏi
Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Xuân Diệu nói về chủ đề gì?
Trả lời: Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Xuân Diệu nói về cuộc sống khó khăn, cực nhọc và đầy gian khổ của ngư dân trong cuộc sống đánh cá trên biển.
Tác giả sử dụng ngôn ngữ và hình ảnh nào để thể hiện cảnh đời của ngư dân trong bài thơ?
Trả lời: Tác giả sử dụng ngôn ngữ thấm đẫm tình người, mô tả hình ảnh ngư dân chất phác, đánh cá vất vả giữa biển khơi với cảnh tượng thiên nhiên hoang sơ và nỗi khao khát về bè bạn quê nhà.
Cảm nhận chung của tác giả về cuộc sống ngư dân được thể hiện như thế nào?
Trả lời: Tác giả cảm nhận chung về cuộc sống ngư dân là một cuộc sống vất vả, hi sinh và cực nhọc. Tuy nhiên, trong điều kiện khó khăn ấy, ngư dân vẫn trăn trở lo toan để kiếm cơm, đồng thời nuôi hy vọng về cuộc sống tốt đẹp hơn.
Tại sao bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Xuân Diệu vẫn được truyền tụng và yêu thích qua thời gian?
Trả lời: Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Xuân Diệu vẫn được truyền tụng và yêu thích qua thời gian bởi nó thể hiện một phần của cuộc sống thực tế, hiện thực và tình người chân thật của ngư dân Việt Nam. Nó mang trong mình giá trị nhân văn sâu sắc, gợi lên những cảm xúc chân thành trong lòng người đọc.
Vừa rồi ACC GROUP đã trình bày nội dung phân tích đội tàu cá. Hi vọng đây sẽ là thông tin hữu ích cho bạn đọc. Xin chân thành cảm ơn!