Phân tích 2 khổ đầu bài Đoàn thuyền đánh cá: Hào hứng và phấn khích
TOP 5 bài Phân tích 2 khổ đầu Đoàn thuyền đánh cá SIÊU HAY, kèm theo 2 dàn ý chi tiết, giúp các em học sinh lớp 9 có thêm nhiều thông tin bổ ích, thấy rõ cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi đầy khí thế.
Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận: Ca ngợi quê hương và sự tự hào về người lao động
Dàn ý Phân tích 2 khổ thơ đầu Đoàn thuyền đánh cá
Dàn ý 1
1. Mở bài:
- Giới thiệu khái quát tác giả, tác phẩm.
- Khái quát nội dung hai khổ thơ đầu.
2. Thân bài:
a) Khổ 1: Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi:
- Biện pháp tu từ so sánh “Mặt trời xuống biển như hòn lửa”: Cảnh mặt trời rực rỡ đang dần chìm vào đại dương bao la.
- Biện pháp tu từ nhân hóa “Sóng đã cài then, đêm sập cửa”: Gợi ra cảnh thiên nhiên vũ trụ như đang chìm vào nghỉ ngơi.
- Khi vạn vật chìm vào giấc ngủ thì lại là lúc đoàn thuyền đánh cá ra khơi.
- Từ “lại” diễn tả công việc lặp đi, lặp lại thường xuyên.
- “Câu hát căng buồm với gió khơi”: Câu hát hân hoan, yêu đời của người ngư dân với mong ước chuyến ra khơi thuận buồm xuôi gió.
b) Khổ 2: Câu hát ra khơi:
- Biện pháp tu từ liệt kê “cá bạc, cá thu”: Nhấn mạnh sự giàu có và trù phú của biển cả.
- “Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng”: Những đoàn cá đêm ngày vẫn đang nối đuôi nhau để dệt lên những luồng sáng rực rỡ nơi biển cả.
- “Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi”: Câu hát gọi cá vào, mong cá xếp đầy khoang.
3. Kết bài:
Khẳng định lại giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của hai khổ đầu.
- Nội dung: Khung cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi và câu hát ngân vang của người ngư dân.
- Nghệ thuật: Sử dụng những biện pháp tu từ đặc sắc, hình ảnh thơ giàu sức gợi.
Dàn ý 2
1. Mở bài
- Giới thiệu nhà thơ Huy Cận, bài thơ Đoàn thuyền đánh cá và dẫn dắt vào khổ thơ 1, 2 của bài thơ.
2. Thân bài
a. Khổ thơ thứ nhất
- So sánh: mặt trời – hòn lửa: tạo cảm giác gần gũi, quen thuộc, khiến người đọc dễ hình dung.
- Nhân hóa: sóng cài then, đêm sập cửa: khiến cho thiên nhiên trở nên sinh động, có hồn hơn.
- Hoàn cảnh ra khơi: Buổi hoàng hôn ấm áp, yên bình.
- Vũ trụ là một ngôi nhà lớn mà màn đêm là cánh cửa, ngọn sóng là then.
→ Giữa lúc thiên nhiên nghỉ ngơi thì con người lại bắt đầu công cuộc lao động của mình.
“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi”, từ “lại” vừa tạo ra sự đối lập giữa tứ thơ ở hai câu trên và hai câu thơ dưới, vừa biểu hiện sự lặp lại của công việc giống như mọi ngày, giống như bao nhiêu năm tháng đã đã qua đoàn thuyền đánh cá vẫn tiếp tục ra khơi không ngừng nghỉ.
Con người lao động không mệt mỏi, cất cao tiếng hát, luôn vững tinh thần, công việc dù có lặp lại nhưng không hề nhàm chán vẫn mang đến những cảm giác, phấn chấn, náo nức, say mê ở người ngư dân.
b. Khổ thơ thứ hai
- Câu hát của người lao động gắn liền với biển khơi, với những loài cá (cá bạc, cá thu,…)
- Sự giàu có của biển cả: cá thu như đoàn thoi, đêm ngày dệt biển,… Mẹ thiên nhiên luôn ưu ái trao cho người dân lao động nơi đây những tinh hoa tốt đẹp nhất.
- Khúc hát lao động hùng tráng của con người thể hiện tinh thần lạc quan, yêu đời, yêu lao động vô cùng đẹp đẽ của con người nơi đây.
3. Kết bài
- Khái quát lại giá trị nội dung, nghệ thuật của 2 khổ thơ nói riêng và bài thơ nói chung.
Phân tích 2 khổ thơ đầu Đoàn thuyền đánh cá
Tình yêu quê hương đất nước là một trong những đề tài gần gũi và là nguồn cảm hứng bất tận của thi ca. “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận là bài thơ ca ngợi vẻ đẹp quê hương và bộc lộ niềm tự hào về người lao động trên chính quê hương mình.
Huy Cận là một trong những tác giả tiêu biểu của phong trào Thơ mới. Các tác phẩm của ông trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 thường mang âm hưởng sầu não, buồn chán trước thực tại. Sau cách mạng, đặc biệt là những năm sau khi miền Bắc giành lại độc lập, thơ ông nhanh chóng hòa nhập với cuộc sống mới, con người mới. “Đoàn thuyền đánh cá” được Huy Cận sáng tác vào năm 1958, khi ông có một chuyến đi thực tế dài ngày ở Hòn Gai, Quảng Ninh. Hai khổ thơ đầu bài thơ, tác giả đã đưa người đọc đến với vùng thiên nhiên mang hơi thở cuộc sống: khủng cảnh ra khơi của người lao động trên biển.
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa.Sóng đã cài then đêm sập cửa.”
Tác giả đã kết hợp khéo léo các biện pháp nghệ thuật so sánh, nhân hoá, liệt kê để miêu tả vẻ đẹp của biển cả khi đêm về. “Mặt trời xuống biển” được ví như “hòn lửa”, một hình ảnh thật độc đáo. Dường như, ta đang thấy được mặt trời đang lặn dần vào lòng biển, giữa một khung cảnh rộng lớn, trên nền trời là sắc đỏ rực rỡ tựa hòn lửa đang bùng cháy. Cảnh vật như đang vận động theo thời gian, như guồng quay của tạo hoá. Vũ trụ lúc này đây như một ngôi nhà lớn, bóng tối dần bao phủ toàn bộ không gian, những con sóng cũng bắt đầu “cài then”, đóng cánh cửa khổng lồ của biển cả. Thiên nhiên chìm vào giấc ngủ, một ngày dài đã khép lại, tất cả đang bước vào trạng thái nghỉ ngơi, nhường chỗ cho những hoạt động của con người:
“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,Câu hát căng buồm cùng gió khơi.”
Khi mặt trời đi ngủ, sóng cài then, đêm mở cửa cũng là lúc người dân chài bước vào hành trình lao động của mình. Từ “lại” được sử dụng trong câu để diễn tả công việc ra khơi đều đặn, quen thuộc của người lao động nơi đây. Nó trở thành một nếp sinh hoạt thường xuyên của người lao động. Đoàn thuyền ra khơi trong niềm háo hức, mong đợi.
Câu hát cất lên gửi gắm niềm tin, hy vọng vào một chuyến đi bội thu trở về. Tiếng hát khỏe khoắn ấy làm căng buồm, đưa con thuyền đi phăng phăng, vượt sóng, vượt gió của biển cả để rẽ sóng, dò bụng biển. “Cánh buồm no gió” còn là hình ảnh tượng trưng cho tinh thần vui vẻ, nhiệt huyết của người lao động khi bắt đầu cuộc hành trình. Có thể thấy, sự kết hợp các hình ảnh “đoàn thuyền”, “câu hát”, “buồm”, “gió” cùng với nhịp điệu khẩn trương, gấp gáp trong khổ thơ đầu đã tạo nên một cảnh tượng ra khơi đầy hào hùng, vừa đẹp, vừa tráng lệ biết bao!
Hành trình đánh bắt được bắt đầu bằng những bài ca gọi cá. Tiếng hát hòa cùng với công việc của người dân chài miền biển:
“Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,Cá thu biển Đông như đoàn thoi.”
Câu hát không chỉ gửi gắm niềm mong mỏi vào một chuyến đi đầy tôm cá mà còn ngợi ca sự giàu có, phong phú của mẹ thiên nhiên. Cá bạc báo biển lặng, cá thu từng đoàn rẽ sóng “như đoàn thoi”. Vẻ đẹp lung linh của những loài cá trong làn nước biển mênh mông cùng ánh vàng, ánh bạc hiện lên thật đẹp, ngỡ là chốn diệu kì của cuộc sống. Bút pháp lãng mạn kết hợp với phép liệt kê, so sánh tạo nên một cảnh biển đêm vừa thực, vừa mộng.
“Đêm ngày dệt biển muôn luồng sángĐến dệt lưới ta, đàn cá ơi!”
Cảnh đánh cá trong đêm giữa biển khơi quá cái nhìn đầy tinh tế của tác giả thật độc đáo. Cách liên tưởng thú vị từ khung cửi dệt vải đến việc mời gọi đàn cá dệt biển, dệt lưới làm cho câu thơ thêm phần mới lạ, cảnh vật trở nên gần gũi với con người hơn bao giờ hết.
“Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!”
Lời mời gọi tha thiết với thán từ gọi đáp “ơi” bộc lộ tình cảm chân thành của người lao động. Một tiếng gọi ân tình để thu cá vào lưới, đáp đền những lao động hăng say mệt nhọc. Nghề chài lưới vất vả, nhọc nhằn là vậy, mà trong âm điệu, lời thơ, ta không thấy mảy may một chút mệt mỏi hay lời than vãn của người dân chài mà trái lại là niềm vui, sự hăng say trong công việc của họ. Những câu hát mang theo mong mỏi, niềm tin, ngợi ca và sự tự hào của thế vàng vọng vào biển cả, nuôi dưỡng tâm hồn bao thế hệ dân chài miền biển.
Lời thơ kết hợp các yếu tố miêu tả, biểu cảm, tự sự cùng việc sử dụng có ý đồ các biện pháp nghệ thuật nhân hoá, so sánh, liệt kê đã tạo nên một khúc nhạc lao động vừa gần gũi vừa dạt dào sức sống. Hai khổ thơ mở ra trước ta hình ảnh của một miền biển tươi đẹp, bình yên, giàu có và những con người lạc quan, hết mình với công việc. Đoạn thơ nói riêng và tác phẩm Đoàn thuyền đánh cá nói chung đã góp phần vào tổ điểm hương sắc cho vườn thơ ca ngợi quê hương, Tổ Quốc Việt.
Phân tích 2 khổ đầu Đoàn thuyền đánh cá
Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi đã được tác giả Huy Cận khắc họa thật ấn tượng qua hai khổ thơ đầu của bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”.
Mặt trời xuống biển như hòn lửaSóng đã cài then đêm sập cửa
Đọc những câu thơ, ta thấy cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi trong 1 khung cảnh huy hoàng, tráng lệ: ra khơi trong buổi hoàng hôn, “mặt trời xuống biển” rồi mà vẫn còn rực cháy như hòn lửa; sắc đỏ của “hòn lửa” khổng lồ ấy như nhuộm cả 1 vùng biển, vùng trời. Buổi hoàng hôn trên biển vì thế không lặng buồn, hiu hắt mà vừa tươi tắn ôm ấp sự sống vừa kì vĩ tráng lệ. “Mặt trời xuống biển” cũng là lúc thiên nhiên vũ trụ đi vào trạng thái nghỉ ngơi, thư giãn. Để tái hiện lại giây phút ấy, tác giả đã sử dụng phép tu từ nhân hóa và ẩn dụ: sóng cài then, đêm sập cửa. Qua những hình ảnh đó ta thấy vũ trụ như 1 ngôi nhà lớn với màn đêm là cánh cửa, những lượn sóng trên biển là then cửa.
Hai động từ “cài” then “sập cửa” sử dụng liên tiếp trong 1 câu thơ gợi cảm giác đêm trên biển xuống rất nhanh, bóng tối phút chốc ngập tràn, thiên nhiên vũ trụ sau 1 ngày làm việc đã đến lúc nghỉ ngơi, tắt lửa, đóng cửa, cài then. Và đúng lúc ấy “Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi”. Con người ra khơi làm việc tương phản với cảnh nghỉ ngơi của biển cả. Hình ảnh “đoàn thuyền” gợi cho ta cảm nhận cách ra khơi thật đông vui, hào hứng. Từ “lại” trong câu thơ biểu thị sự lặp lại thường nhật, liên tục cho thấy việc đoàn thuyền ra khơi trong buổi hoàng hôn là 1 công việc bình thường, hàng ngày của những người ngư dân, thật đều đặn mà cũng thật khẩn trương như chạy đua với thời gian. Đồng hành với những người ngư dân không chỉ có đoàn thuyền mà còn có những khúc tráng ca: “Câu hát căng buồm cùng gió khơi”. Hình ảnh “câu hát căng buồm” là 1 hình ảnh ẩn dụ tuyệt hay, câu hát của những người ngư dân lạc quan, yêu đời, yêu nghề, yêu biển có sức mạnh làm căng cánh buồm, cùng với gió đưa thuyền ra xa.
Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,Cá thu biển Đông như đoàn thoiĐêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!
Những câu hát khỏe khoắn, say sư hứng khởi vang xa, trải rộng trên mặt biển vừa ngợi ca biển đẹp giàu với “cá bạc biển Đông lặng” “cá thu” “như đoàn thoi” vừa khao khát chinh phục biển khơi làm giàu cho Tổ quốc “đến dệt lưới ta đoàn cá ơi” khiến cho buổi ra khơi đầy khí thế, hứa hẹn 1 ngày thắng lợi.
Phân tích 2 khổ đầu bài thơ Đoàn thuyền đánh cá
Huy cận là nhà thơ xuất sắc của phong trào thơ mới trước cách mạng, thơ Huy Cận hướng về thiên nhiên vũ trụ với những nét buồn man mác, sau cách mạng thơ ông tập trung ca ngợi thiên nhiên đất nước và niềm vui của con người trước cách mạng với một hồn thơ dạt dào cảm xúc. Tiêu biểu là bài thơ “đoàn thuyền đánh cá” được sáng tác năm 1958 sau chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Hạ Long – Quảng Ninh. Bài thơ là một khúc tráng ca khỏe khoắn, hào hùng về thiên nhiên và con người lao động. Điều này được thể hiện sâu sắc, tinh tế ở khổ 1 và khổ 2 của bài:
Đến với khổ thơ đầu là cảnh biển vào đêm và đoàn thuyền ra khơi đánh cá, trước hết cảnh biển vào đêm được khắc họa bằng đôi mắt quan sát sắc sảo, trí tưởng tượng phong phú và tài năng nghệ thuật điêu luyện của nhà thơ:
“Mặt trời xuống biển như hòn lửaSóng đã cài then đêm sập cửa”
Hình ảnh “mặt trời xuống biển” được so sánh với “hòn lửa” đỏ rực, cách so sánh này làm cho hoàng hôn trên biển trở lên rực rỡ tráng lệ và ấm áp, chứ không ảm đạm hắt hiu như thơ cổ, sau lúc hoàng hôn là màn đêm buông xuống “sóng đã cài then đêm sập cửa” câu thơ sử dụng phép tu từ nhân hóa gợi cảm xúc vũ trụ như một ngôi nhà lớn, màn đêm buông xuống là tấm cửa khổng lồ còn là những con sóng là chiếc then cài của ngôi nhà vĩ đại. Thiên nhiên vũ trụ đang chìm vào đêm yên tĩnh và lặng lẽ, đồng thời phép nhân hóa còn gợi lên sự gần gũi giữa tự nhiên và con người lao động: con người đi trong biển đêm mà như đi trong ngôi nhà thân yêu của mình, đối lập với trạng thái nghỉ ngơi của vũ trụ, con người lại bắt đầu công việc của mình:
“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi”
Ở đây không phải là từng chiếc riêng lẻ mà là cả đoàn thuyền – sức mạnh mới của cuộc đời đổi thay, “lại ra khơi” diễn tả nhịp lao động của dân chài đã ổn định vào nề nếp trong hòa bình.
Tác giả đã tạo ra một hình ảnh khỏe lại chân thực vừa lãng mạn bay bổng, sự gắn kết của 3 sự vật “cánh buồm, gió khơi, câu hát” của người dân đánh cá. Câu hát thể hiện niềm vui, sự phấn chấn và niềm tin tưởng vào chuyến ra khơi thắng lợi.
Sang khổ thơ thứ hai nói rõ về câu hát để làm nổi bật nét tâm hồn của người dân chài, tiếng hát cầu mong đi biển gặp nhiều may mắn.
Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,Cá thu biển Đông như đoàn thoiĐêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!
Trong niềm vui hân hoan lao động, cảnh vật biển, cảnh quan biển dường như đều phát sóng, họ cất lên tiếng hát ngợi ca sự giàu có của biển cả, bởi “rừng vàng, biển bạc” trong câu thơ thứ nhất từ “bạc” là một định ngữ nghệ thuật có ý nghĩa số lượng cá nhiều và phải tạo lên sự giàu có quý giá của biển cả. Cái giàu ấy còn được cụ thể hóa ở câu thơ thứ hai với hình ảnh so sánh “cá thu” với “đoàn thoi” đã được tác giả xây dựng trên một liên tưởng thực tế ” cá thu mình lấp lánh ánh trăng lướt rất nhanh trên biển như con thoi chạy đi chạy lại trên khung cửa dệt vải. Từ đó ta mới hiểu được hai câu thơ sau là những nhân hóa vô cùng tinh tế của Huy Cận. Trong sự tưởng tượng của những người đánh cá yêu quý biển cả quê hương của mình, cá đi trên biển là cá dệt biển, cá vào lưới là cá dệt lưới, “đến dệt lưới ta” từ “ta” vang lên đầy tự hào kiêu hãnh trong suốt bài thơ, không còn là cái tôi nhỏ bé, đơn côi như ngày xưa nữa mà là cái “ta” tập thể đầy sức mạnh. Tuy nhiên, với người dân miền biển lúc này chuyện làm ăn thường có nhiều may rủi nên ra khơi đánh cá họ cầu mong biển lặng sóng êm, gặp luồng cá đánh bắt được nhiều, niềm mong ước ấy phản ánh tấm biển, khổ thơ mang âm hưởng ngọt ngào vang xa, của dòng cảm hứng vũ trụ với sự lãng mạn của tâm hồn, kết hợp với những hình ảnh sáng tạo đã đem đến cho người đọc bao liên tưởng, bao thú vị về vẻ đẹp của thơ ca viết về lao động.
Tóm lại với việc xây dựng hình ảnh thơ bằng liên tưởng, tưởng tượng, âm hưởng hào hùng, lạc quan, bài thơ đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận nói chung và hai khổ thơ đầu nói riêng đã khắc họa cảnh biển đêm vô cùng lung linh và cảnh đoàn thuyền ra khơi đánh cá với niềm say sưa lạc quan tin tưởng của người dân chài, đó là niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước đất nước và cuộc sống mới, qua đây đã khơi gợi trong lòng người đọc chúng ta sự trân trọng con người lao động mới từ đó hãy góp sức xây dựng đất nước ngày càng thêm giàu đẹp.
Cảm nhận 2 khổ đầu bài thơ Đoàn thuyền đánh cá
Huy Cận là nhà thơ tiêu biểu trong phong trào thơ mới. Thơ ông trước cách mạng thường mang màu sắc u buồn nhưng từ sau cách mạng thì vui tươi hơn. Tiêu biểu cho phong cách thơ sau cách mạng phải nhắc đến bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”. Tác phẩm đã làm nổi bật tinh thần hăng say lao động của người ngư dân. Đặc biệt ở hai khổ thơ đầu, nhà thơ đã cho người đọc cảm nhận được cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi đầy khí thế và lời hát yêu đời của những người thuyền chài.
Mở đầu bài thơ, tác giả đã làm nổi bật khung cảnh thiên nhiên khi đoàn thuyền đánh cá ra khơi:
“Mặt trời xuống biển như hònSóng đã cài then, đêm sập cửa”
Bằng việc sử dụng biện pháp tu từ so sánh, nhà thơ đã gợi lên cảnh mặt trời đang dần chìm vào đại dương. Bóng tối lúc này như đang len lỏi khắp mọi nơi. Trong thời khắc đó “sóng” và “đêm” đá được nhân hóa để thực hiện hành động “cài then”, “sập cửa” để chìm vào trạng thái nghỉ ngơi. Liên kết với hai câu thơ sau, nhà thơ đã diễn tả khung cảnh đối lập giữa thiên nhiên và con người:
“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơiCâu hát căng buồm với gió khơi”
Khi thiên nhiên dần khép lại thì người ngư dân mới bắt đầu công việc của mình. Từ “lại” đã diễn tả hoạt động xảy ra thường xuyên, liên tục. Việc ra khơi là hoạt động quen thuộc của người ngư dân nhưng họ không cảm thấy chán nản. Ý thơ giúp ta cảm nhận được tinh thần làm việc đầy hăng say của con người. Họ cất vang câu hát để hi vọng một chuyến ra khơi thuận buồm xuôi gió, cá chất đầy khoang.
Ở khổ thơ thứ hai, nhà thơ Huy Cận đã làm thể hiện lại những lời hát của người ngư dân:
“Hát rằng: cá bạc biển Đông lặn,Cá thu biển đông như đoàn thoiĐêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!”
Lời hát của người người dân lao động trên biển như vọng tận nơi xa. Họ cất cao giọng để ca ngợi sự trù phú của vùng biển quê hương bằng cách nhắc tên các loài cá. Loại cá đầu tiên được nhắc đến là cá bạc. Tiếp theo là cá thu, tác giả đã sử dụng biện pháp so sánh “như đoàn thoi” để người đọc thấy được sự đông đúc của đoàn cá. Nghệ thuật nhân hóa ở câu thơ “Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng” đã làm nổi bật vẻ đẹp của mặt biển. Những loài cá mang nhiều màu sắc khác nhau tạo nên vẻ đẹp lung linh huyền ảo cho đại dương. Ngoài ra, việc sử dụng đại từ xưng hô “ta” để chỉ cả một tập thể chứ không phải một ngư dân nào để thể hiện tinh thần đoàn kết của người lao động. Họ cùng nhau đánh bắt để có được những mẻ cá tươi ngon, mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Vậy qua đây, độc giả có thể cảm nhận được niềm vui, niềm phấn khởi trong lời bài hát của ngư dân.
Bằng việc sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật đan xen kết hợp với những hình ảnh thơ đặc sắc, nhà thơ Huy Cận đã giúp người đọc cảm nhận được khung cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi vào buổi hoàng hôn đầy hào hứng. Người ngư dân luôn tích cực trong công cuộc lao động sản xuất để góp phần xây dựng cuộc sống thêm ấm no, hạnh phúc.
Viết đoạn văn phân tích hai khổ đầu bài thơ Đoàn thuyền đánh cá
Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” giúp người đọc cảm nhận được tinh thần lao động tích cực của những người ngư dân. Ở hai khổ thơ đầu, nhà thơ Huy Cận đã làm nổi bật khung cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi và câu hát lạc quan yêu đời của người ngư dân. Người dân làng chài bắt đầu công việc của mình là khi “Mặt trời xuống biển như hòn lửa”. Bằng việc sử dụng biện pháp tu từ so sánh, tác giả đã tái hiện cảnh mặt trời như đang dần chìm vào đáy đại dương. Nhà thơ sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa để gán cho sự vật những hành động giống với con người “Sóng đã cài then, đêm sập cửa”. Lúc này, dường như vạn vật như đang chìm vào nghỉ ngơi. Ấy vậy mà ở thời điểm đó người dân chài bắt đầu ra khơi. Từ “lại” đã diễn tả hoạt động thường xuyên, liên tục không ngừng nghỉ. Công việc đó dù có vất vả cũng không khiến người ngư dân chùn bước hay chán nản. Họ vẫn cất vang câu hát lạc quan, yêu đời để mong chờ một chuyến ra khơi thuận buồm xuôi gió. Đến khổ thơ thứ 2, lời ca vang đó càng thêm rộn rã, vui tươi hơn. Biện pháp tu từ liệt kê “cá bạc, cá thu”, đã ngợi ca sự giàu có, trù phú của biển cả. Chính những loài cá với nhiều màu sắc đã tạo nên những “luồng sáng” rực rỡ. Điều đó làm cho người ngư dân cảm thấy phấn khích hơn, tin tưởng vào một chuyến đi bội thu. Họ cất vang câu hát gọi cá vào, mong chờ một chuyến ra khơi thuận buồm xuôi gió, cá chất đầy khoang. Bằng việc sử dụng biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa cùng với những hình ảnh thơ giàu sức gợi, nhà thơ Huy Cận đã làm nổi bật bức tranh đoàn thuyền đánh cá buổi ra khơi đầy hào hứng, phấn khởi.