Cảm nhận chân thành về những khổ thơ 3, 4, 5, 6 trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá – nguồn cảm hứng từ cuộc sống của người lao động biển
Bạn đã từng trải qua những cung bậc cảm xúc trong đoạn thơ 3, 4, 5, 6 của bài thơ Đoàn thuyền đánh cá chưa? Hãy chia sẻ những suy nghĩ đặc biệt của bạn trong bài văn này, mang đến cho người đọc một trải nghiệm sâu sắc và mới lạ.
Cảm nhận về những khổ thơ 3, 4, 5, 6 trong bài Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận là cảm xúc chân thành và sâu lắng nhất về cuộc sống và tinh thần của người lao động biển.
I. Tóm tắt Cảm nhận về đoạn thơ 3, 4, 5, 6 của bài thơ Đoàn thuyền đánh cá (Ngắn gọn)
1. Mở đầu
– Giới thiệu khái quát về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá- Đưa ra tóm tắt về các khổ thơ 3, 4, 5, 6
2. Nội dung chính
a. Khổ thơ 3:– Gió thổi buồm, người lái thuyền vượt sóng, buồm chở trăng vượt biển, mây lướt bên trời.- Việc đặt động từ ‘lướt’ ở đầu câu thể hiện sự phấn khích trong việc lái thuyền, vượt qua biển cả.
b. Khổ thơ 4:– Liệt kê các loại cá: cá nhụ, cá chim, cá đé, cá song,… => Biển phong phú- Cá song ‘lấp lánh đuốc đen hồng’ tỏa sáng dưới ánh trăng, ‘quẫy – trăng vàng choé’: rực rỡ.- Sự nhân hoá trong ’em’, ‘Đêm thở’, ‘sao lùa’: sự gần gũi, thân thiện
c. Khổ thơ 5:– Câu hát tràn đầy tình yêu, hy vọng- Lời cảm ơn và lòng tôn trọng của con người dành cho biển cả
d. Khổ thơ 6:– Hình ảnh mạnh mẽ, khỏe khoắn của người dân chài: kéo xoăn tay – chùm cá nặng- Kết quả xứng đáng sau những nỗ lực: vẩy bạc – đuôi vàng- Niềm tin, hy vọng vào một tương lai tươi sáng: buồm lên – nắng hồng
3. Kết luận
Xác nhận lại sức hút của các khổ thơ.
II. Phản ánh về khổ thơ 3, 4, 5, 6 của bài thơ Đoàn thuyền đánh cá (tuyệt vời nhất):
‘Đoàn thuyền đánh cá’ là một tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời của Huy Cận về hình ảnh của người lao động trong cuộc chiến với thiên nhiên. Trong các khổ thơ ba, bốn, năm, sáu, nhà thơ đã tạo ra một bức tranh sáng sủa về cuộc sống đánh cá vào ban đêm của người dân. Bắt đầu từ khổ thơ ba, Huy Cận mô tả sự nhanh chóng của con thuyền trên biển mênh mông. Bằng cách sử dụng ngôn từ ‘Thuyền ta lái gió với buồm trăng’, người đọc có cảm giác như con thuyền đang làm chủ biển cả, vươn lên với vũ trụ. Ngư dân ra khơi với lòng dũng cảm, kiểm soát tự nhiên. Họ bắt đầu với việc ‘dò sâu biển’ để tìm kiếm những con cá lớn. Sau đó họ chuẩn bị ‘mạng quanh’. Qua đó, độc giả có thể thấy được kỹ thuật đánh cá tinh tế của người dân biển. Trong khổ thơ thứ tư, nhà thơ đã ca ngợi sự phong phú của các loài cá biển. Bằng cách sử dụng biện pháp tu từ liệt kê ‘cá nhụ, cá chim, cá đé, cá song’ giúp người đọc nhận ra rằng biển cả với các loài cá vô số. Chính nhờ biển cả mà cuộc sống của con người trở nên phong phú hơn. Vì vậy, nhà thơ đã thể hiện lòng biết ơn sâu sắc qua hai câu thơ ”Biển cho ta cá như lòng mẹ’, ‘Nuôi lớn đời ta tự buổi nào’. Đối với nhà thơ, biển cả chính là người mẹ rộng lượng mang lại những điều tốt lành cho cuộc sống của họ. Và ở khổ thơ thứ sáu, tác giả đã mô tả cảnh người đánh cá kéo lưới để kịp sáng. Câu thơ ‘Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng’ giúp người đọc cảm nhận được sự mạnh mẽ, đầy sức sống của những người chài. Sau một chuyến đi vất vả, phút giây hạnh phúc nhất với ngư dân là được quay về nhà. Vì vậy, thông qua những biện pháp tu từ đặc sắc, nhà thơ Huy Cận đã tạo ra bức tranh rực rỡ về đoàn thuyền đánh cá trên biển mênh mông. Qua đó, người đọc cũng cảm nhận được tinh thần lao động hăng say của con người.
III. Phản ánh về bài thơ 3, 4, 5, 6 của Đoàn thuyền đánh cá (Tốt nhất)
1. Bài văn cảm nhận về khổ thơ 3, 4, 5 của Đoàn thuyền đánh cá vô cùng xuất sắc – Mẫu số 1
Sau cách mạng tháng Tám, thơ Huy Cận không còn ngập tràn nỗi buồn về cuộc sống như trước mà thay vào đó là sự yêu thương cuộc sống, ca ngợi đời sống và con người. Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá được sáng tác trong một chuyến đi thực tế tại Quảng Ninh, là một tác phẩm điển hình. Vẻ đẹp tuyệt vời, kỳ diệu của thiên nhiên kết hợp với sức mạnh và sự lạc quan của con người tạo ra một bức tranh cuộc sống hài hòa và đẹp đẽ. Các đoạn thơ 3, 4, 5, 6 là những phần thơ nổi bật nhất trong bức tranh đó.
‘Thuyền lái gió, buồm chạy trăng sángLướt giữa mây trắng, sóng biển vắng’
Những người đi đánh cá mang theo âm nhạc của hy vọng và niềm tin. Trong biển cả rộng lớn như vũ trụ, những người lao động trở nên vĩ đại, lớn lao, tự làm chủ công việc của mình. Dưới góc nhìn lãng mạn của thi sĩ và sự tưởng tượng độc đáo, công việc khó nhọc trở nên thú vị đến bất ngờ. Thiên nhiên hỗ trợ những người lao động, gió căng buồm cùng người lái thuyền vượt qua sóng, buồm chở trăng vượt biển, lướt qua mây. Nhờ vào gió và trăng, người lao động hứng khởi hơn với công việc, cảm nhận thiên nhiên gần gũi, thân thuộc hơn nhiều. Việc sử dụng động từ ‘lướt’ ở đầu câu cho thấy sự phấn khích trong hoạt động lái thuyền, vượt biển.
‘Ra đi đặt dòng đậu xa dò sâu biển’
Thuyền cùng người ‘lướt trên mây’, vượt qua ‘biển rộng’ để đến những vùng biển xa xôi, ‘đặt dòng đậu xa’, tìm kiếm những nguồn cá tôm phong phú. Việc đánh cá không dễ dàng, phải có kinh nghiệm và trí tuệ, người lao động mới có thể tìm được nơi có bãi cá, dòng tôm để đánh bắt ‘dò sâu biển’.
‘Dàn đan thế trận lưới vây bao phủ’
Đánh bắt cá là cuộc thách thức của con người đối mặt với thiên nhiên. Công việc này như một trận chiến của người lao động, đòi hỏi sự tập trung cao độ trong mỗi bước ‘dàn đan thế trận’ để giăng lưới. Việc đánh cá hiện thực nhưng cũng ẩn chứa một vẻ đẹp lãng mạn qua bàn tay của Huy Cận. Kinh nghiệm đánh bắt cá tôm qua mùa mưa nắng đã nuôi dưỡng lòng can đảm và sự kiên nhẫn trong những người dân chài, biến công việc này thành một nghệ thuật, người lao động trở thành những nghệ sĩ tài ba, dũng cảm và khiêm tốn.
‘Cá nhụ, cá chim, cá đéCá song lấp lánh dưới ánh trăng vàngĐuôi cá quẫy, trăng sáng choé’
Thiên nhiên dường như hiểu được sự cố gắng của con người và ân cần họ, ban cho họ nguồn cá tôm phong phú. Tác giả sử dụng thủ pháp liệt kê để thể hiện sự đa dạng của các loài cá trên biển: cá nhụ, cá chim, cá đé, cá song, … Niềm vui của người lao động khi gặp luồng cá đông đến thể hiện rõ qua từng cụm từ. Trong ánh trăng dịu dàng giữa biển cả, những chú cá hiện lên rực rỡ, đẹp đẽ. Cá song ‘lấp lánh dưới ánh trăng vàng’ nổi bật giữa làn nước đêm. Việc nhân hoá ’em’ thể hiện sự gần gũi và thân thiện của người lao động với cá biển. Động từ ‘quẫy’ kết hợp với cụm danh từ ‘trăng sáng choé’ làm cho khung cảnh trở nên sống động, thơ mộng. Ánh trăng và cá tôm tạo nên vẻ đẹp mê hoặc của biển cả.
‘Biển thở, sao lùa dưới nước Hạ Long’
Tác giả tiếp tục sử dụng nghệ thuật nhân hoá để miêu tả thiên nhiên, như ‘đêm thở’, ‘sao lùa’.
‘Hát vang bài ca triệu cá về,Thuyền gõ nhịp trăng nổi chiều cao,Biển âu yếm ta như mẹ ấm,Nuôi dạy ta từ khi bé thơ’
Câu hát luôn đi kèm với người lao động trên biển. Dù mệt mỏi, nhưng lời ca vẫn vang lên, xua tan khó khăn, mang lại nguồn năng lượng tích cực. Lời hát mời gọi tôm cá đến với con người với sự thiết tha và ân tình. Trăng góp thêm nhịp nhàng cho bản hát, tạo ra không khí lãng mạn. Nhịp thơ nhẹ nhàng, lời thơ phóng khoáng thể hiện vẻ đẹp của người lao động: tự do, kiêu hãnh và đầy khát khao.
Xúc cảm tràn ngập, thay lời biết ơn từ lòng dành cho biển mẹ:
‘Biển là mẹ nuôi ta từ béCho ấm áp cuộc đời bề bồng’
Thế hệ nhiều đời lớn lên nhờ biển cả. Biển mang lại nguồn sống cho người lao động, giúp họ mưu sinh và nuôi sống gia đình. Biển vĩ đại như mẹ, ban cho chúng ta nguồn cá tôm phong phú, nuôi dưỡng cuộc sống ‘Nuôi lớn đời ta từ nhỏ’. Lời khen ngợi biển là lời yêu thương và biết ơn.
‘Sao sáng, lướt lưới, nắng mới rạngThân ta dũng mãnh, chắc tay kéo’
Huy Cận không chỉ miêu tả vẻ mạnh mẽ của người dân qua ngoại hình mà còn qua hành động. Khi bình minh đến, mọi người hối hả kéo lưới lên. Hành động ‘kéo tay chùm cá nặng’ thể hiện sức mạnh của họ, một hình ảnh mạnh mẽ và kiên cường. ‘Chùm cá nặng’ là niềm vui sau những cố gắng, đồng thời là sự hạnh phúc của họ.
‘Bạc vẩy, đuôi vàng, đón nắng rạngLưới buồm xếp, sẵn sàng hành trình’
Khi chùm lưới nặng được kéo lên, một ngày mới bắt đầu. Cá tôm đầy khoang là thành quả của họ. ‘Bạc vẩy’, ‘đuôi vàng’ lung linh trong bình minh, tượng trưng cho niềm vui và hạnh phúc của người dân chài. Họ chào đón ngày mới với hy vọng và niềm vui.
4 khổ thơ tràn đầy cảm xúc, thể hiện tình yêu và niềm tin của tác giả đối với người dân chài và quê hương Việt Nam. Huy Cận đã truyền đạt những cảm xúc tự hào về con người và thiên nhiên Việt Nam.
‘Bài văn cảm nhận đoạn thơ 3, 4, 5, 6 của Đoàn thuyền đánh cá ngắn gọn – Mẫu 2’
‘2.1. Dàn ý cảm nhận khổ 3, 4, 5, 6 bài Đoàn thuyền đánh cá: 2.1.1. Mở bài: – Tóm tắt về tác giả, tác phẩm. – Tóm tắt nội dung khổ 3, 4, 5, 6. 2.1.2. Thân bài: – a) Khổ 3: – Miêu tả tốc độ di chuyển của con thuyền giữa biển khơi bao la. – So sánh sức mạnh của con người và thiên nhiên. – Tìm kiếm những con cá to. – Ẩn dụ cách đánh bắt của ngư dân như đang dàn trận để chiến đấu. – b) Khổ 4: – Liệt kê các loài cá trên biển và tạo ra hình ảnh lung linh. – Mô tả vẻ đẹp của ánh trăng trên biển đêm. – Nhịp thở của buổi đêm là âm thanh của tiếng sóng vỗ. – c) Khổ 5: – Bài hát ca vang gọi cá vào lưới. – Người ngư dân gõ vào mạn thuyền để gọi cá. – Biển cả chính là người mẹ thiên nhiên nuôi sống họ. – d) Khổ 6: – Khi sao trên trời mờ dần thì những người ngư dân cũng phải nhanh tay kéo lưới lên. – Hình ảnh khỏe mạnh và hăng say lao động. – Ánh sáng ngày mới chiếu lên thân những chú cá sáng lấp lánh. – Khung cảnh trở về đầy vui tươi. 2.1.3. Kết bài: – Khẳng định giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của đoạn thơ 3, 4, 5, 6. + Nội dung: Hình ảnh người ngư dân đánh cá trên biển trong cảnh thiên nhiên bao la, rộng lớn. + Nghệ thuật: Sử dụng biện pháp tu từ đặc sắc, những liên tưởng so sánh thú vị, hình ảnh thơ giàu sức gợi.’
‘2.2. Cảm nhận về khổ thơ 3, 4, 5, 6 của Đoàn thuyền đánh cá’:
‘Có nơi đâu đẹp tuyệt vời’
‘Như sông như núi như người Việt Nam’
Hai dòng thơ trên tôn vinh sự phong phú, thịnh vượng của vẻ đẹp tự nhiên ở Việt Nam. Thiên nhiên đó mang lại nguồn sống phong phú cho con người. Bài thơ ‘Đoàn thuyền đánh cá’ đã mô tả chi tiết về sự giàu có đó. Nó tường minh hóa cảnh thuyền đánh cá ra khơi, với bầu không khí làm việc hăng hái, vui vẻ. Trong các dòng thơ ba, bốn, năm, sáu, tác giả minh họa rõ ràng về hình ảnh những người đánh cá trên biển trong bối cảnh thiên nhiên rộng lớn, bao la.
Nếu ở hai dòng thơ đầu, Huy Cận tạo điểm nhấn cho hình ảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi, thì ở dòng thơ ba, hình ảnh đoàn thuyền lướt nhanh trên biển xuất hiện:
‘Thuyền ta lái gió với buồm trăng’
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Chèo thuyền đậu dặm xa, tìm bụng biển,
Mạng lưới vây quanh sắp đặt chặt,’
Đoàn thuyền ra khơi không chỉ do sức người mà còn do sức gió. Gió là thủ lĩnh, đưa thuyền trên sóng. Con người, nhờ gió, trở nên vĩ đại và kiểm soát được thiên nhiên. Thuyền nhỏ nhưng hùng mạnh, vươn mình ngang ngửa với vũ trụ. Hình ảnh thuyền và thiên nhiên gắn bó, thân thiết hơn bao giờ hết. Trong các dòng thơ tiếp theo, nhà thơ mô tả cụ thể cảnh đánh cá. Thuyền ra khơi, ngư dân chuẩn bị làm việc. Trước khi đánh bắt, họ phải ‘dò bụng biển’, tìm kiếm cá mới dưới đáy biển. Đây là sự cẩn trọng và tính toán cần thiết trong công việc.
Ở khổ thơ thứ tư, tác giả hé lộ sự phong phú của các loài cá biển:
‘Cá nhụ, cá chim, cá đé’
Cá song lung linh dưới đuốc đỏ hồng
Đuôi nhấp nhô dưới ánh trăng vàng loá
Đêm thở: sao rải sáng trên nước Hạ Long
Sử dụng phép liệt kê tinh tế, nhà văn đã nhắc đến hàng loạt loài cá nổi tiếng ở vùng biển Việt Nam như cá chim, cá nhụ, cá đé,… Tất cả đều là những nguồn tài nguyên quý giá, mang lại lợi ích kinh tế lớn lao. Đây là sự ca ngợi tinh thần vững mạnh của biển cả quê hương, nơi tạo ra nguồn tài nguyên bất tận cho con người. Đêm trên biển không chỉ giàu mà còn đẹp, đẹp đến mức thơ mộng, đẹp đến mức đậm chất tình tứ. Khi bóng đêm buông xuống và trăng lên cao, ta chứng kiến những ngôi sao sáng rực trên bầu trời đen bí, ánh trăng mơ màng, tiếng sóng rì rào như mời gọi con người vào một thế giới huyền bí, quyến rũ. Vẻ đẹp ấy, cùng sắc màu của hàng loạt loài cá hòa quyện, tạo nên một bức tranh lãng mạn, lộng lẫy.
Trước biển bao la, người dân chài vang lên bài hát gọi cá vào lưới:
‘Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.’
Biển như một bà mẹ nuôi con
Cho ta cá mỗi buổi sớm mai.
Lời hát vang xa trên biển mênh mông,
Gõ thuyền gọi cá, niềm vui trong lòng.
Khi sao tan mờ, lưới chờ bình minh nở.
Xoăn tay chùm cá nặng ta kéo lên.
Vẻ đẹp rạng ngời, đuôi bạc vàng lung linh.
Buồm xếp đón nắng, ngọt hồng sớm mai.
Người đàn ông thợ lặn vươn mình bắt cá dưới ánh nắng bình minh. Họ như những chiến binh dũng cảm trên biển, chiến đấu với những con sóng cao vút để thu hoạch lúa đặc biệt từ đại dương.
Nhà thơ truyền cảm hứng Huy Cận đã mô tả một cách sinh động cuộc sống của người đàn ông đánh bắt cá. Đọc những dòng thơ của ông, ta cảm nhận được sức mạnh và lòng dũng cảm của con người đối diện với biển cả.
Trải qua những thước phim đẹp như tranh vẽ, chúng ta hiểu được cuộc sống của người dân biển với những khó khăn và nỗi vui. Huy Cận đã khắc họa lên tâm trí chúng ta bức tranh sâu lắng về cuộc sống đầy gian nan và hy vọng trên biển khơi.
Phân tích sâu sắc về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá đã giúp chúng ta hiểu rõ hơn về tâm hồn của những con người dũng cảm và kiên cường. Hãy tiếp tục nỗ lực, vươn lên để khám phá thêm về vẻ đẹp và ý nghĩa sâu xa của văn chương.